Ctenochaetus tominiensis

Ctenochaetus tominiensis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Acanthuriformes
Họ (familia)Acanthuridae
Chi (genus)Ctenochaetus
Loài (species)C. tominiensis
Danh pháp hai phần
Ctenochaetus tominiensis
Randall, 1955

Ctenochaetus tominiensis là một loài cá biển thuộc chi Ctenochaetus trong họ Cá đuôi gai. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1955.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Loài cá này được đặt theo tên của vịnh Tomini, Indonesia, nơi chúng được phát hiện lần đầu tiên[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]
C. tominiensis ở ngoài khơi Philippines

C. tominiensis có phạm vi phân bố tương đối phổ biến ở Tây Thái Bình Dương. Loài cá này được tìm thấy ở những nhóm đảo phía đông của quần đảo Mã Lai (bờ đông của đảo Borneo, Đông Indonesia, PhilippinesPapua New Guinea); phía đông trải dài đến quần đảo Solomon, Palau, Vanuatu, FijiTonga; phía bắc trải dài đến Liên bang Micronesia; phía nam giới hạn đến bắc rạn san hô Great Barrier[1][3].

C. tominiensis sống gần các rạn san hô ở khu vực sườn dốc của rạn san hô viền bờ, nơi không có sóng lớn, ở độ sâu khoảng từ 3 đến 45 m[1], nhưng thường được quan sát ở độ sâu khoảng 25 m trở lại[3].

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở C. tominiensis là 16 cm[3]. Có một mảnh xương nhọn chĩa ra ở mỗi bên cuống đuôi, tạo thành ngạnh sắc. Cơ thể hình bầu dục thuôn dài, có màu nâu. Vây lưng và vây hậu môn có góc nhọn, phần vây sau có màu cam sáng nổi bật[4]. Có 2 đốm đen ở phần tiếp giáp giữa cuống đuôi với vây lưng và vây hậu môn[4]. Vây đuôi có màu trắng, chẻ đôi hình chữ Y ở cá con và lõm sâu tạo thành hình lưỡi liềm ở cá trưởng thành[3]. Rìa môi có những đường răng cưa rất nhỏ[3]. Có đôm trắng ở trước mắt.

Số gai ở vây lưng: 8; Số tia vây ở vây lưng: 24 - 25; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 22 - 23; Số tia vây ở vây ngực: 15 - 16[4].

Sinh thái và hành vi

[sửa | sửa mã nguồn]

C. tominiensis có thể sống đơn độc hoặc theo đàn[3]. Thức ăn của các loài Ctenochaetus chủ yếu là các loại tảovụn hữu cơ. Chúng dùng răng của mình để đẩy cát đá trên nền đáy và xúc những mảnh tảo vụn vào miệng[5]. Các loài Ctenochaetus đều có chung một đặc điểm là dạ dày có thành dày[5].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c K. D. Clements; J. H. Choat; C. Nanola; R. Abesamis; R. Myers; J. McIlwain; B. Russell; L. A. Rocha; B. Stockwell (2012). Ctenochaetus tominiensis. Sách đỏ IUCN. 2012: e.T177986/1512001. doi:10.2305/IUCN.UK.2012.RLTS.T177949A1500072.en. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2020.
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order ACANTHURIFORMES (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2020.
  3. ^ a b c d e f Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2020). Ctenochaetus tominiensis trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2020.
  4. ^ a b c John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1997). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 538. ISBN 978-0824818951.
  5. ^ a b J. E. Randall; K. D. Clements (2001). “Second revision of the surgeonfish genus Ctenochaetus (Perciformes: Acanthuridae), with descriptions of two new species”. Indo-Pacific Fishes. 32.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Một số Extensions dành cho các dân chơi Visual Code
Một số Extensions dành cho các dân chơi Visual Code
Trước khi bắt tay vào cốt thì bạn cũng nên tự trang trí vì dù sao bạn cũng sẽ cần dùng lâu dài hoặc đơn giản muốn thử cảm giác mới lạ
Chu Kỳ Bitcoin Halving: Sự Kiện Định Hình Tương Lai Crypto
Chu Kỳ Bitcoin Halving: Sự Kiện Định Hình Tương Lai Crypto
Phát triển, suy thoái, và sau đó là sự phục hồi - chuỗi vòng lặp tự nhiên mà có vẻ như không một nền kinh tế nào có thể thoát ra được
Sự khác biệt về mặt
Sự khác biệt về mặt "thông số" của Rimuru giữa hai phiên bản WN và LN
Những thông số khác nhau giữa 2 phiên bản Rimuru bản Web Novel và Light Novel
Tại sao chúng ta nên trở thành một freelancer?
Tại sao chúng ta nên trở thành một freelancer?
Freelancer là một danh từ khá phổ biến và được dùng rộng rãi trong khoảng 5 năm trở lại đây