Dieu et mon droit

Khẩu hiệu xuất hiện trên một cuộn bên dưới tấm khiên trên phiên bản Vương gia huy Vương quốc Anh được sử dụng ngoài Scotland.

Chúa và quyền của tôi (Dieu et mon droit, phát âm tiếng Pháp: ​[djø e mɔ̃ dʁwa], Bản mẫu:Lang-fro, tiếng Anh: God and my right),[1][2] là khẩu hiệu của Quốc vương Vương quốc Anh.[2] Nó xuất hiện trên một cuộn bên dưới tấm khiên phiên bản vương gia huy Vương quốc Anh.[1] Phương châm được cho là lần đầu tiên được sử dụng bởi Richard I (1157–1199) như một tiếng hô xung trận và được cho là ám chỉ đến tổ tiên người Pháp của ông (thực sự là ông nói tiếng Pháp và Occitan nhưng chỉ biết tiếng Anh cơ bản) và khái niệm về quyền cai trị thiêng liêng của quốc vương.[3] Nó đã được sử dụng làm khẩu hiệu hoàng gia của Anh bởi vua Henry V (1386–1422)[2][3][4] với cụm từ "và quyền của tôi" đề cập đến yêu sách của ông bằng cách hạ bệ vương thất Pháp.[4]

Ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Khẩu hiệu là tiếng Pháp cho "Chúa và quyền của tôi",[2] có nghĩa là vua "Rex Angliae Dei gratia":[5][6][7][8][9] Vua nước Anh nhờ ơn Chúa.[2] Nó được sử dụng để ám chỉ rằng quốc vương của một quốc gia có quyền cai trị (thần thánh) do Chúa ban cho.[2]

Đối với quốc huy của Vương quốc Anh có phương châm tiếng Pháp thay vì tiếng Anh không có gì lạ, vì tiếng Norman Pháp là ngôn ngữ chính của triều đình Anh và giai cấp thống trị tuân theo sự cai trị của William I của Normandie và sau đó là Plantagenet. Một cụm từ tiếng Pháp cổ khác cũng xuất hiện trong thành tích đầy đủ của Hoàng gia huy. Khẩu hiệu của Huân chương Garter, Honi soit qui mal y pense ("xấu hổ cho bất cứ ai nghĩ sai"), xuất hiện trên mặt trước của một chiếc garter đằng sau tấm khiên. Chính tả tiếng Pháp hiện đại đã thay đổi honi đến honni, nhưng khẩu hiệu chưa được cập nhật.

Các bản dịch khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Dieu et mon droit đã được dịch theo nhiều cách, bao gồm "Chúa và quyền của tôi" (God and my right), "Chúa và cánh tay phải của tôi" (God and my right hand),[10][11] "Chúa và quyền hợp pháp của tôi" (God and my lawful right),[12] và "Chúa và quyền của tôi sẽ tôi bảo vệ" (God and my right shall me defend).[13]

Bản dịch theo nghĩa đen của Dieu et mon droit là "Chúa và quyền của tôi".[2] Tuy nhiên, "Kearsley's Complete Peerage", xuất bản năm 1799, dịch nó có nghĩa là "Chúa và cánh tay phải của tôi" (trong tiếng Pháp chuẩn sẽ là Dieu et ma main droite, chứ không phải mon droit). Tập Kearsley xuất hiện trong lần xuất bản ấn bản đầu tiên (1796–1808) của tiếng Đức Brockhaus Enzyklopädie, trong đó nhấn mạnh việc giơ "tay phải" trong lễ cài đặt và đăng quang của các vị vua Đức.

Encyclopédie của Diderot liệt kê khẩu hiệu là Dieu est mon droit, mà Susan Emanuel đã dịch là "Chúa là quyền của tôi".[14]

Sử dụng như khẩu hiệu hoàng gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc huy của Anh với khẩu hiệu Cảnh vệ chínhValletta, Malta[2]

Dieu et mon droit thường được sử dụng làm phương châm của các quốc vương Anh, và sau đó là các quốc vương Anh, kể từ khi được Henry V áp dụng.[2][4][15] Nó lần đầu tiên được sử dụng như một tiếng kêu xung trận của vua Richard I vào năm 1198 tại Trận Gisors, khi ông đánh bại lực lượng của Philippe II của Pháp và sau khi ông biến nó thành khẩu hiệu của mình.[15][16] Niềm tin ở châu Âu thời trung cổ không phải là chiến thắng sẽ tự động nghiêng về phía quân đội tốt hơn mà là, giống như thử thách cá nhân bằng chiến đấu, nghiêng về phía mà Chúa xem xét bằng sự ưu ái.[17] Do đó, Richard đã viết sau chiến thắng của mình "Không phải chúng tôi đã làm điều đó mà là Chúa và quyền của chúng tôi thông qua chúng tôi".[15] Vì vậy, sau những chiến thắng của ông trong các cuộc thập tự chinh "Richard đã nói những gì ông tin là sự thật khi nói với Hoàng đế La Mã Thần thánh: 'Tôi được sinh ra trong một cấp bậc không công nhận cấp trên nào ngoài Chúa'".[18]

Ngoài ra, Hoàng gia huy có thể mô tả khẩu hiệu cá nhân của quốc vương. Ví dụ: Elizabeth INữ hoàng Anne thường được trưng bày Semper Eadem; tiếng Latinh có nghĩa là "Luôn luôn giống nhau",[19]Beati Pacifici được mô tả bởi James I, Tiếng Latinh có nghĩa là "Phúc cho những người kiến tạo hòa bình".[20]

Dieu et mon droit trên Nhà hải quan ở thành phố Newcastle trên sông Tyne (1766)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “Coats of arms”. The Official Website of the British Monarchy. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2009.
  2. ^ a b c d e f g h i Morana, Martin (tháng 9 năm 2011). Bejn kliem u storja: glossarju enċiklopediku dwar tradizzjonijiet – toponimi – termini storiċi Maltin (bằng tiếng Malta). Malta: Best Print. tr. 59. ISBN 978-99957-0-137-6. OCLC 908059040. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2016.
  3. ^ a b Dieu Et Mon Droit on British Coins Accessed 23 December 2008
  4. ^ a b c Juliet Barker (2 tháng 9 năm 2010). Agincourt: The King, the Campaign, the Battle. Little, Brown Book Group. tr. 24. ISBN 978-0-7481-2219-6.
  5. ^ Ted Ellsworth, Yank: Memoir of a World War II Soldier (1941–1945), Da Capo Press, 2009, p. 29.
  6. ^ Tony Freer Minshull, The Foley Family Volume One, Lulu.com, 2007, p. 114.
  7. ^ The Journal of the British Archaeological Association, vol. 17, British Archaeological Association, 1861 p. 33.
  8. ^ Henry Shaw, Dress and decoration of the Middle Ages, First Glance Books, 1998, p. 92.
  9. ^ Dresses and Decorations of the Middle Ages, vol. 1, William Pickering, 1843, section 2.
  10. ^ Kearsley, George (1799). Kearsley's Complete Peerage, of England, Scotland, and Ireland. tr. xxiii. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2009.
  11. ^ Mary Ellen Snodgrass (2003). Coins and Currency: An Historical Encyclopedia. tr. 227.
  12. ^ Foreign Service Journal (Pg 24) by American Foreign Service Association (1974)
  13. ^ Edward Coke (1671). The Fourth part of the Institutes of Laws of England: Concerning the Jurisdiction of Courts. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2009. Khẩu hiệu cổ xưa của vua Anh là Chúa và quyền của tôi (intelligitur) tôi sẽ bảo vệ
  14. ^ “God is my right”. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2015.
  15. ^ a b c Pine, Leslie Gilbert (1983). A Dictionary of mottoes. Routledge. tr. 53. ISBN 978-0-7100-9339-4.
  16. ^ Norris, Herbert (1999). Medieval Costume and Fashion . Courier Dover Publications. tr. 312. ISBN 0-486-40486-2.
  17. ^ "Nếu sau một trận chiến là chiến thắng, người ta hiểu rằng quân đội được coi là có lợi cho Chúa và chiến thắng được coi là một cử chỉ chúc phúc." (Lehtonen, Tuomas M. S.; Jensen, Kurt Villads (2005). Medieval history writing and crusading ideology. Studia Fennica: Historica. 9 . Finnish Literature Society. ISBN 951-746-662-5.)
  18. ^ Hallam, Elizabeth (1996). Medieval Monarchs. Crescent Books. tr. 44. ISBN 0-517-14082-9.
  19. ^ Watkins, John (2002). Representing Elizabeth in Stuart England: literature, history, sovereignty . Cambridge University Press. tr. 206. ISBN 0-521-81573-8.
  20. ^ Biden, William Downing (1852). The history and antiquities of the ancient and royal town of Kingston upon Thames. William Lindsey. tr. 6.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Red Loong lại đeo một đống lò lửa trên lưng - Black Myth: Wukong
Red Loong lại đeo một đống lò lửa trên lưng - Black Myth: Wukong
Trong phần lore của Xích Nhiêm Long (Red Loong), có kể rất chi tiết về số phận vừa bi vừa hài và đầy tính châm biếm của chú Rồng này.
Nhân vật Beta - The Eminence in Shadow
Nhân vật Beta - The Eminence in Shadow
Cô ấy được biết đến với cái tên Natsume Kafka, tác giả của nhiều tác phẩm văn học "nguyên bản" thực sự là phương tiện truyền thông từ Trái đất do Shadow kể cho cô ấy.
Một số sự thật thú vị về Thụ Yêu Tinh Treyni
Một số sự thật thú vị về Thụ Yêu Tinh Treyni
Là thực thể đứng đầu rừng Jura (được đại hiền nhân xác nhận) rất được tôn trọng, ko ai dám mang ra đùa (trừ Gobuta), là thần bảo hộ, quản lý và phán xét của khu rừng
Đường nhỏ hóa mèo - Albedo x Sucrose
Đường nhỏ hóa mèo - Albedo x Sucrose
Albedo vuốt đôi tai nhỏ nhắn, hôn lên sống mũi nàng mèo thật nhẹ. Cô thế này có vẻ dễ vỡ