Vương tộc Plantagenet | |
---|---|
Gia tộc cũ | Gia tộc Ingelger |
Quốc gia | |
Thành lập | Thế kỉ 12 |
Thông tin | |
Quân chủ cuối cùng | Richard III của Anh |
Tước hiệu | Danh sách
|
Giải thể |
|
Phế truất | 1485 |
Dòng nhánh |
|
Vương tộc Plantagenet[a] (phát âm: /plænˈtædʒənɪt/) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn triều đại khác biệt: những vị vua Angevin, cũng là Bá tước xứ Anjou; triều đại chính Plantagenet sau khi mất Anjou; và hai nhánh phụ của nhà Plantagenet, triều đại Lancaster và York. Triều đại này nắm giữ ngai vàng Anh từ năm 1154, bắt đầu với Henry II cho đến năm 1485 khi Richard III qua đời trong trận chiến.
Dưới triều đại Plantagenet, nước Anh đã biến đổi dù chỉ là vài phần có chủ đích. Các vị vua Plantagenet thường bị buộc phải đàm phán các thỏa hiệp như Magna Carta, vốn hạn chế quyền lực của hoàng gia để đổi lấy sự hỗ trợ về tài chính và quân sự. Nhà vua không chỉ là người quyền lực nhất đất nước, nắm giữ đặc quyền phán xét, cống nạp phong kiến và chiến tranh, mà có nghĩa vụ rõ ràng đối với vương quốc, được hỗ trợ bởi một hệ thống tư pháp cầu kì. Bản sắc dân tộc riêng biệt của họ được hình thành bởi các cuộc xung đột với người Pháp, người Scotland, người Wales và người Ireland, cũng như việc thiết lập tiếng Anh trung đại trở thành ngôn ngữ chính.
Vào thế kỷ 15, triều đại Plantagenet bị đánh bại trong Chiến tranh Trăm năm và vướng phải nhiều vấn đề về xã hội, chính trị và kinh tế. Các cuộc nổi loạn của người dân diễn ra thường xuyên do nhiều quyền tự do bị từ chối. Giới quý tộc Anh thành lập quân đội riêng, tham gia vào các cuộc xung đột riêng và công khai thách thức Henry VI.
Cuộc cạnh tranh giữa hai nhánh của nhà Plantagenet là York và Lancaster đã dẫn đến Chiến tranh Hoa Hồng, một cuộc chiến kéo dài hàng thập kỷ để tranh giành ngôi vị nước Anh. Cuộc chiến lên đến đỉnh điểm trong Trận Bosworth năm 1485, khi triều đại của Vương tộc Plantagenet và thời kỳ Trung cổ ở Anh đều kết thúc sau cái chết của Richard III. Cuối cùng Henry VII, một người có gốc thuộc nhà Lancaster đã trở thành Quốc vương chính thống của nước Anh. Năm tháng sau, ông kết hôn với Elizabeth xứ York, do đó kết thúc Chiến tranh Hoa Hồng và dẫn đến sự ra đời vương triều Tudor. Vương tộc Tudor đã làm việc để tập trung quyền lực hoàng gia Anh, cho phép họ tránh được một số vấn đề đã gây khó khăn cho những vị vua cuối cùng của nhà Plantagenet. Sự ổn định sau đó đã bắt đầu thời kỳ Phục Hưng Anh và nước Anh hiện đại sơ khai. Tất cả các quốc vương Anh và sau đó là Vương quốc Liên hiệp Anh từ Henry VII đến nay đều là hậu duệ của Vương tộc Plantagenet.
Cái tên Plantagenet được Richard xứ York, Công tước thứ 3 xứ York nhận làm tên dòng họ vào thế kỷ 15. Plantegenest (hay Plante Genest) từng là biệt danh vào thế kỷ 12 của tổ tiên Richard là Geoffroy V xứ Anjou và Công tước xứ Normandie. Một trong nhiều giả thuyết phổ biến cho rằng biệt danh này có nguồn gốc từ hoa của loài cây chổi Cytisus scoparius, một loài thực vật có màu vàng được gọi là genista trong tiếng Latin trung đại.[1]
Không rõ tại sao Richard lại chọn cái tên này, mặc dù trong Chiến tranh Hoa Hồng, nó nhấn mạnh địa vị của Richard là hậu duệ nhánh nam của Geoffroy. Việc sử dụng cái tên Plantagenet để chỉ tất cả các hậu duệ nam của Geoffroy rất phổ biến trong triều đại Tudor, có lẽ bởi tính hợp pháp mà nó mang lại cho chắt trai của Richard là Henry VIII. Phải đến cuối thế kỷ 17, thuật ngữ Plantagenet mới được các nhà sử học sử dụng phổ biến.[2]
Angevin trong tiếng Pháp có nghĩa là "từ Anjou", và có ba vị vua Angevin là con trai của Geoffroy xứ Anjou là Henry II, Richard I và John. Các dòng họ quý tộc thường được đặt theo lãnh thổ hoặc nơi sinh, ví dụ như Vương tộc Normandie hoặc Vương tộc Wessex. "Angevin" cũng có thể ám chỉ giai đoạn lịch sử mà họ trị vì, và nhiều nhà sử học coi Angevin là một vương tộc Anh riêng biệt, hoặc cũng được sử dụng để ám chỉ bất kỳ chủ quyền hoặc chính phủ nào có nguồn gốc từ Anjou. Là một danh từ, nó đề cập đến người bản xứ Anjou hoặc một nhà cai trị Angevin, cụ thể là bá tước và công tước của Anjou bao gồm tổ tiên của ba vị vua thành lập nên vương tộc Anh, họ hàng của các vị vua là người cai trị Jerusalem, và các thành viên hoàng gia Pháp không có quan hệ họ hàng sau đó đã được trao tặng danh hiệu và thành lập các triều đại khác nhau, chẳng hạn như Nhà Capet của Anjou và Nhà Valois của Anjou. Do đó, có sự bất đồng giữa những người coi Henry III là quốc vương Plantagenet đầu tiên với những người không phân biệt giữa Nhà Angevin và Nhà Plantagenet, do đó họ coi Henry II là quốc vương Plantagenet đầu tiên.[3][4][5][6]
Thuật ngữ "Đế quốc Angevin" được Kate Norgate đặt ra vào năm 1887. Không có tên gọi chung đương thời được biết đến để chỉ tất cả vùng lãnh thổ được cai trị bởi các vị vua Angevin Anh, dẫn đến những tên gọi vòng vo như "vương quốc của chúng ta và mọi thứ nằm dưới sự cai trị của chúng ta bất kể nó là gì" hoặc "toàn bộ vương quốc từng thuộc về cha của ngài". Từ "Đế quốc" trong "Đế quốc Angevin" đã gây tranh cãi, đặc biệt là vì những lãnh thổ này không chịu sự quản lý của bất kỳ luật lệ hay hệ thống quản lý thống nhất nào, và mỗi vùng vẫn giữ nguyên luật lệ, truyền thống và mối quan hệ phong kiến riêng. Năm 1986, một hội nghị của các nhà sử học đã kết luận rằng không có nhà nước Angevin và do đó không có "Đế quốc Angevin", nhưng thuật ngữ espace Plantagenet ("khu vực Plantagenet" trong tiếng Pháp) lại được chấp nhận. Tuy vậy, các nhà sử học vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ "Đế quốc Angevin".[7]
Các bá tước xứ Anjou sau này, bao gồm cả nhà Plantagenet là hậu duệ của Geoffroy II, Bá tước xứ Gâtinais và vợ là Ermengarde xứ Anjou. Năm 1060, cặp vợ chồng được thừa kế tước hiệu thông qua quan hệ họ hàng với một gia tộc Angevin có nguồn gốc từ một nhà quý tộc tên là Ingelger, có lịch sử được ghi chép từ năm 870.[8]
Trong thế kỷ thứ 10 và 11, các cuộc đấu tranh giành quyền lực đã diễn ra giữa những người cai trị ở miền bắc và miền tây nước Pháp, bao gồm những người cai trị Anjou, Normandie, Bretagne, Poitou, Blois, Maine và các vị vua Pháp. Vào đầu thế kỷ 12, Geoffroy xứ Anjou kết hôn với Hoàng hậu Matilda, người con hợp pháp duy nhất còn sống của Henry I và là người thừa kế ngai vàng Anh. Kết quả của cuộc hôn nhân này là con trai Henry II của Geoffroy được kế thừa ngai vàng Anh cũng như các tước hiệu Norman và Angevin, do đó đánh dấu sự khởi đầu của các triều đại Angevin và Plantagenet.
Cuộc hôn nhân là nỗ lực thứ ba của cha Geoffroy là Foulques V, Bá tước xứ Anjou để xây dựng một liên minh chính trị với Normandie. Trước tiên, ông gả con gái là Mathilde xứ Anjou cho William Adelin, người thừa kế của Henry I. Sau khi William chết đuối trong vụ chìm tàu White Ship, Fulk gả một người con gái khác là Sibylle cho William Clito, con của anh trai Henry I là Robert Curthose. Henry I đã hủy bỏ cuộc hôn nhân để tránh củng cố yêu sách đối địch của William đối với Normandie. Cuối cùng, Foulques đã đạt được mục tiêu thông qua cuộc hôn nhân của Geoffroy và Matilda. Sau đó, ông truyền lại danh hiệu của mình cho Geoffroy và trở thành Vua Jerusalem.
Khi Henry II chào đời vào năm 1133, ông ngoại Henry I được cho là đã rất vui mừng và nói rằng cậu bé là "người thừa kế vương quốc". Sự ra đời của Henry làm giảm nguy cơ vương quốc sẽ được chuyển giao cho gia đình con rể của Nhà vua, điều có thể xảy ra nếu Matilda và Geoffroy không có hậu duệ. Sự ra đời của con trai thứ hai, cũng tên là Geoffrey, làm tăng khả năng thừa kế theo phong tục của Pháp, trong đó Henry sẽ nhận được quyền thừa kế Anh từ phía nhà ngoại và Geoffroy nhận được quyền thừa kế Angevin từ phía nhà nội. Điều này sẽ tách biệt Vương quốc Anh và Anjou.[9]
Để đảm bảo một sự kế vị có trật tự, Geoffroy và Matilda đã tìm kiếm thêm quyền lực từ Henry I, nhưng một trận cãi vã đã xảy ra sau khi Nhà vua từ chối trao cho họ quyền lực có thể được sử dụng để chống lại ông. Khi Henry I qua đời vào tháng 12 năm 1135, cặp vợ chồng lúc đó đang ở Anjou, tạo điều kiện cho anh họ của Matilda là Stephen chiếm đoạt ngai vàng nước Anh. Việc Stephen lên ngôi gây tranh cãi đã bắt đầu tình trạng bất ổn dân sự lan rộng, sau được gọi là Sự hỗn loạn.[10]
Bá tước Geoffroy không mấy quan tâm đến nước Anh. Thay vào đó, ông bắt đầu cuộc chiến tranh kéo dài mười năm để giành công quốc Normandie, nhưng rõ ràng là để đưa cuộc xung đột này đến hồi kết thành công, Stephen sẽ phải bị thách thức ở Anh. Năm 1139, Matilda và người anh cùng cha khác mẹ là Robert xâm lược nước Anh.[11] Từ năm chín tuổi, Henry nhiều lần được cử đến Anh để làm bù nhìn trong các chiến dịch, vì rõ ràng là cậu sẽ trở thành vua nếu nước Anh bị chinh phục. Năm 1141, Stephen bị bắt trong trận Lincoln và sau đó được trao đổi với Robert, người cũng bị bắt. Geoffroy tiếp tục cuộc chinh phục Normandie và vào năm 1150, ông chuyển giao công quốc cho Henry trong khi vẫn giữ vai trò chính trong chính quyền của công quốc.[12]
Ba sự kiện đã giúp nhà Angevin chấm dứt thành công cuộc xung đột:
Trong số anh chị em của Henry, William và Geoffrey qua đời khi chưa kết hôn và không có con, nhưng cuộc hôn nhân đầy sóng gió của Henry và Aliénor, người đã có hai con gái (Marie và Alix) từ cuộc hôn nhân đầu tiên với Louis VII, đã sinh ra tám người con trong mười ba năm:[18]
Henry cũng có những đứa con ngoài giá thú với một số tình nhân, có thể lên tới mười hai người. Những người con bao gồm Geoffrey, William, Peter và bốn người con qua đời khi còn trẻ với Alys, con gái của Louis VII, khi đã đính hôn với con trai của Henry là Richard.[23] Năng lực và tầm quan trọng của William với tư cách là một người con hoang của nhà vua đã dẫn ông đến sự nghiệp lâu dài và lừng lẫy.[24]
Henry tái khẳng định và mở rộng quyền bá chủ trước đây để đảm bảo quyền sở hữu lãnh thổ kế tục.[25] Năm 1162, Henry cố gắng tái lập những gì được coi là thẩm quyền của mình đối với Giáo hội Anh bằng cách bổ nhiệm người bạn Thomas Becket làm Tổng giám mục Canterbury sau cái chết của tổng giám mục đương nhiệm Theobald. Sự bất chấp của Becket với tư cách là Tổng giám mục đã khiến nhà vua và các cố vấn của ông xa lánh. Henry và Becket đã nhiều lần tranh chấp về các vấn đề như quyền sở hữu nhà thờ, cuộc hôn nhân của em trai Henry và thuế.[26]
Henry phản ứng bằng cách yêu cầu Becket và các giám mục Anh khác công nhận mười sáu phong tục cổ xưa bằng văn bản lần đầu tiên trong Hiến pháp Clarendon, điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà vua, triều đình và nhà thờ. Khi Becket cố gắng rời khỏi đất nước mà không được phép, Henry đã cố gắng hủy hoại ông bằng cách đệ đơn kiện liên quan đến nhiệm kỳ trước của Becket với tư cách là thủ tướng. Becket đã chạy trốn và lưu vong trong 5 năm. Mối quan hệ sau đó được cải thiện và Becket trở về, nhưng lại trở nên suy yếu khi con trai của Henry được Tổng giám mục York phong làm đồng nhiếp chính, điều mà Becket coi là một thách thức đối với thẩm quyền của mình.[26]
Becket sau đó đã khai trừ những người đã xúc phạm ông. Khi nhận được tin này, Henry đã nói: "Những kẻ vô lại và phản bội khốn khổ mà ta đã nuôi dưỡng và thăng chức trong gia đình ta đã để cho lãnh chúa của chúng bị một viên chức thấp hèn đối xử với sự khinh miệt đáng xấu hổ như vậy." Bốn hiệp sĩ của Henry đã giết Becket tại Nhà thờ chính tòa Canterbury sau khi Becket chống lại một nỗ lực bắt giữ bất thành. Henry bị coi là đồng lõa trong cái chết của Becket trên khắp lãnh thổ Châu Âu theo đạo Thiên chúa. Điều này khiến Henry trở thành một kẻ bị ruồng bỏ. Để sám hối, Henry đã đi chân trần vào Nhà thờ chính tòa Canterbury, nơi ông bị các tu sĩ đánh roi dã man.[26]
Từ năm 1155, Henry tuyên bố rằng Giáo hoàng Adriano IV đã trao cho ông quyền cải cách nhà thờ Ireland bằng cách nắm quyền kiểm soát Ireland, nhưng nghiên cứu của Giáo sư Anne Duggan chỉ ra rằng Laudabiliter là bản làm giả một lá thư có sẵn và trên thực tế đó không phải là ý định của Giáo hoàng.[27] Ban đầu, nó cho phép anh trai của Henry là William một số lãnh thổ. Henry không đích thân hành động cho đến năm 1171 khi William đã qua đời. Henry xâm lược Ireland để khẳng định quyền lực của mình đối với các hiệp sĩ đã tích lũy được quyền tự chủ sau khi họ chiêu mộ binh lính ở Anh và xứ Wales và thuộc địa hóa Ireland với sự cho phép của ông. Sau đó, Henry đã trao Ireland cho con trai út là John.[28]
Năm 1172, Henry tặng John các lâu đài Chinon, Loudun và Mirebeau làm quà cưới. Điều này khiến người con trai mười tám tuổi Henry Vua Trẻ tức giận vì tin rằng số lâu đài đó phải là của ông. Một cuộc nổi loạn của vợ và ba người con trai cả của Henry II xảy ra, trong đó Louis VII của Pháp ủng hộ cuộc nổi loạn, và William Sư tử của Scotland cùng những người khác tham gia. Sau mười tám tháng, Henry đã khuất phục được những kẻ nổi loạn.[29]
Tại Le Mans vào năm 1182, Henry II đã tập hợp các con của mình lại để lập kế hoạch chia phần thừa kế: con trai cả còn sống của ông, Henry, sẽ thừa kế nước Anh, Normandie và Anjou; Richard (người được mẹ yêu thích nhất) sẽ thừa kế Công quốc Aquitaine; Geoffrey sẽ thừa kế Bretagne; và John sẽ thừa kế Ireland. Điều này dẫn đến xung đột hơn nữa. Henry trẻ lại nổi loạn, nhưng qua đời vì bệnh kiết lỵ, trong khi đó Geoffrey qua đời năm 1186 sau một tai nạn trong một giải đấu. Năm 1189, Richard và Philippe II của Pháp khẳng định lại các yêu sách khác nhau của họ, lợi dụng sức khỏe đang suy yếu của Henry. Henry buộc phải chấp nhận các điều khoản hòa bình một cách nhục nhã, bao gồm cả việc chỉ định Richard là người thừa kế duy nhất của ông. Vị vua già cẢ qua đời hai ngày sau đó trong sự thất bại và đau khổ. Các nhà đạo đức đương thời của Pháp và Anh coi số phận này là sự trừng phạt vì đã giết chết Becket;[30] ngay cả người con trai hợp pháp được ông yêu thích nhất là John cũng đã nổi loạn, mặc dù người con trai ngoài giá thú trung thành là Geoffrey vẫn ở lại với Henry cho đến lúc cuối cùng.[31]
Sau lễ đăng quang của Richard, ông nhanh chóng sắp xếp lại công việc của vương quốc và lên đường thực hiện một cuộc Thập tự chinh đến Trung Đông. Ý kiến về Richard thay đổi liên tục. Ông được kính trọng vì khả năng lãnh đạo quân sự và cách cư xử lịch sự, nhưng Richard cũng đã từ chối và làm nhục em gái của vua Pháp, cũng như phế truất vua Síp và sau đó bán hòn đảo. Trong cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, ông đã trở thành kẻ thù của Leopold V, Công tước Áo, bằng cách tỏ ra thiếu tôn trọng với các biểu ngữ của ông cũng như từ chối chia sẻ chiến lợi phẩm của chiến tranh. Richard bị đồn là đã sắp xếp vụ ám sát Conrad xứ Montferrat, và sự tàn nhẫn của ông đã được chứng minh bằng vụ thảm sát 2.600 tù nhân ở Acre.[32] Richard giành được chiến thắng trong cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, nhưng không chiếm được Jerusalem. Theo Steven Runciman, Richard là "một đứa con hư, một người chồng tồi và một vị vua tồi".[33] Jonathan Riley-Smith mô tả ông là "hư danh... gian xảo và ích kỷ".[34] Còn trong một quan điểm khác, John Gillingham chỉ ra rằng trong nhiều thế kỷ, Richard được coi là một vị vua mẫu mựk.[35]
Trở về từ cuộc thập tự chinh với một nhóm nhỏ những người theo sau, Richard bị Leopold bắt và được giao cho Hoàng đế Heinrich VI. Heinrich đã giam giữ Richard trong mười tám tháng (1192–1194) trong khi mẹ ông quyên góp tiền chuộc trị giá 100.000 mác. Trong thời gian Richard vắng mặt, Philippe II đã chiếm đóng những vùng đất rộng lớn của Normandie và John đã giành được quyền kiểm soát các vùng đất Anh của Richard. Sau khi trở về Anh, Richard xá tội cho John và tái lập quyền lực của mình ở Anh. Ông lại rời đi vào năm 1194 và chiến đấu với Philippe trong năm năm, cố gắng giành lại những vùng đất đã chiếm được trong thời gian bị giam cầm. Khi gần giành được chiến thắng hoàn toàn, Richard đã bị thương bởi một mũi tên trong một cuộc bao vây và qua đời mười ngày sau đó.[36]
Việc Richard không cung cấp người thừa kế đã gây ra một cuộc khủng hoảng liên tiếp và xung đột giữa những người ủng hộ yêu sách của cháu trai ông là Arthur và John. Guillaume des Roches dẫn đầu các đại thần của Anjou, Maine và Touraine tuyên bố ủng hộ Arthur.[37] Một lần nữa Philippe II của Pháp cố gắng làm xáo trộn các lãnh thổ Plantagenet trên lục địa châu Âu bằng cách ủng hộ yêu sách của chư hầu Arthur của ông đối với ngai vàng Anh. John đã giành được một chiến thắng quan trọng khi ngăn chặn lực lượng của Arthur bắt giữ mẹ ông, bắt giữ toàn bộ thủ lĩnh phiến quân tại Trận Mirebeau và em gái là Aliénor xứ Bretagne.
John không quan tâm đến ý kiến của đồng minh về số phận của các tù nhân, nhiều người trong số họ là láng giềng và họ hàng của ông. Thay vào đó, John giam giữ các tù nhân một cách quá tàn ác và đau thương đến nỗi điều đó trở nên xấu hổ và xấu xí đối với tất cả những người ở cùng John và những người chứng kiến sự tàn ác này, theo Histoire de Guillaume le Maréchal.[38] Do hành động của John, các gia tộc Thouars, Lusignan và des Roches hùng mạnh đã nổi loạn và John mất quyền kiểm soát Anjou, Maine, Touraine và phía bắc Poitou. Con trai của John là Henry III duy trì yêu sách đối với các vùng lãnh thổ Angevin cho đến tháng 12 năm 1259 khi ông chính thức đầu hàng và đổi lại được trao Gascogne với tước hiệu công tước xứ Aquitaine và là chư hầu của vua Pháp.[39]
Danh tiếng của John càng bị tổn hại hơn vì tin đồn, được mô tả trong biên niên sử Margam rằng chính ông đã giết Arthur trong lúc say rượu, và nếu diều đó không đúng thì gần như chắc chắn John đã ra lệnh giết người.[40] Có hai quan điểm trái ngược nhau giải thích về sự sụp đổ đột ngột vị thế của John. Sir James Holt cho rằng đây là kết quả tất yếu của nguồn lực vượt trội của Pháp. John Gillingham xác định sự quản lý ngoại giao và quân sự yếu kém và chỉ ra rằng Richard đã quản lý được lãnh thổ Angevin với nguồn tài chính tương đương.[41] Nick Barratt đã tính toán rằng nguồn lực của Angevin có thể sử dụng trong chiến tranh ít hơn 22 phần trăm so với Philippe, khiến Angevin ở thế bất lợi.[42]
Đến năm 1214, John tái lập quyền lực của bản thân tại Anh và lên kế hoạch mà Gillingham gọi là chiến lược lớn để chiếm lại Normandie và Anjou.[43] Kế hoạch là John sẽ thu hút quân Pháp từ Paris, trong khi một đội quân khác do cháu trai ông là Otto IV, Hoàng đế La Mã Thần thánh và người anh cùng cha khác mẹ William chỉ huy tấn công từ phía bắk. Ông cũng đưa cháu gái Aliénor xứ Bretagne đến với mục đích đưa lên làm Nữ Công tước xứ Bretagne. Kế hoạch đã thất bại khi đồng minh của John bị đánh bại tại Trận Bouvines. Otto rút lui và sớm bị lật đổ, William bị người Pháp bắt giữ và John đồng ý một thỏa thuận ngừng chiến trong năm năm.[44][45]
Từ đó trở đi, John cũng từ bỏ yêu sách đối với Bretagne của Aliénor và giam cầm cháu gái đến suốt đời.[46] Thất bại của John làm suy yếu quyền lực của ông tại Anh, và các nam tước buộc ông phải đồng ý với Magna Carta vào năm 1215, trong đó hạn chế quyền lực hoàng gia. Cả hai bên đều không tuân thủ các điều khoản của Magna Carta, dẫn đến Chiến tranh Nam tước lần thứ nhất, trong đó các nam tước nổi loạn đã mời Vương tử Louis là chồng của Blanca, cháu gái Henry II đến xâm lược Anh.[47] Louis đã làm như vậy nhưng vào tháng 10 năm 1216, trước khi cuộc xung đột kết thúc một cách dứt khoát, John đã qua đời.[48] Trang web chính thức của Hoàng gia Anh coi cái chết của John là sự kết thúc của triều đại Angevin và sự khởi đầu của triều đại Plantagenet.[49]
Tất cả các quốc vương Anh sau này đều là hậu duệ của dòng dõi Angevin thông qua John, người có năm người con hợp pháp với Isabelle:[50]
John cũng có những đứa con ngoài giá thú với một số tình nhân. Những đứa con này có thể bao gồm chín người con trai tên là Richard, Oliver, Henry, Osbert Gifford, Geoffrey, John FitzJohn hoặc Courcy, Odo hoặc Eudes FitzRoy, Ivo, Henry, Richard, người cai quản của Lâu đài Wallingford và ba người con gái tên là Joan, Matilda, nữ tu viện trưởng xứ Barking và Isabella la Blanche.[55] Trong số họ, Joan là người nổi tiếng nhất vì là phối ngẫu của Thân vương Llewelyn Đại đế của Wales.[56]
William Marshal, Bá tước thứ 1 xứ Pembroke, được bổ nhiệm làm nhiếp chính cho Vua Henry chín tuổi sau cái chết của Vua John. Sau đó, sự ủng hộ dành cho Louis suy giảm, và ông từ bỏ yêu sách của mình trong Hiệp ước Lambeth sau chiến thắng của Marshal tại các trận chiến Lincoln và Sandwich năm 1217.[57] Chế độ Marshal đã ban hành Magna Carta đã sửa đổi làm cơ sở cho chính quyền tương lai.[57] Bất chấp Hiệp ước Lambeth, tình trạng thù địch vẫn tiếp diễn và Henry buộc phải thỏa hiệp với Louis VIII của Pháp mới lên ngôi và cha dượng của Henry là Hugues X xứ Lusignan. Cả hai đều chiếm đóng phần lớn đất đai còn lại của Henry trên lục địa, làm xói mòn thêm quyền lực của nhà Angevin trên lục địa. Trong các cuộc đấu tranh chính trị, Henry nhận thấy nhiều điểm tương đồng giữa bản thân và vị thánh bảo trợ của Anh, Edward Người xưng tội.[58] Do đó, ông đặt tên cho con trai đầu lòng là Edward và xây dựng ngôi đền tráng lệ hiện có cho Edward Người xưng tội[59]
Vào đầu năm 1225, một hội đồng lớn đã thông qua khoản thuế 40.000 bảng Anh để điều động một đội quân, nhanh chóng chiếm lại Gascogne. Trong một cuộc họp, các đặc quyền phong kiến của nhà vua đã bị thách thức bởi các nam tước, giám mục và các nhà quý tộc, những người yêu cầu nhà vua ban hành lại Magna Carta và Hiến chương Rừng để đổi lấy sự ủng hộ. Henry tuyên bố rằng các hiến chương được ban hành theo "ý chí tự nguyện và tự do" của riêng ông và xác nhận chúng bằng con dấu hoàng gia, trao cho Hiến chương Lớn mới và Hiến chương Rừng năm 1225 nhiều thẩm quyền hơn bất kỳ phiên bản nào trước đó.[57]
Henry III có chín người con::[60]
Henry phá sản vì chi tiêu quân sự và sự phung phí của mình. Giáo hoàng đã đề nghị trao Vương quốc Sicilia cho anh trai của Henry là Richard, nhưng chi phí quân sự để thay thế Hoàng đế đương nhiệm Friedrich là quá cao. Matthew Paris viết rằng Richard đã tuyên bố: "Người cũng có thể nói, 'Ta tặng bạn một món quà là mặt trăng - hãy bước lên bầu trời và hạ nó xuống'." Thay vào đó, Henry đã mua vương quốc cho con trai là Edmund, điều này đã khiến nhiều nam tước quyền lực tức giận. Các nam tước do anh rể của Henry là Simon de Montfort dẫn đầu đã buộc ông phải đồng ý với Điều khoản Oxford, theo đó các khoản nợ của Henry được trả để đổi lấy những cải cách đáng kể. Tại Pháp, với Hiệp ước Paris, Henry chính thức giao nộp lãnh thổ của tổ tiên Angevin cho Louis IX của Pháp, đổi lại nhận được danh hiệu công tước xứ Aquitaine và lãnh thổ Gascogne với tư cách là chư hầu của vua Pháp.[57]
Bất đồng giữa các nam tước và nhà vua ngày càng gia tăng. Các nam tước, dưới quyền Simon de Montfort đã chiếm được hầu hết vùng đông nam nước Anh trong Chiến tranh Nam tước lần thứ hai. Tại Trận Lewes năm 1264, Henry và Vương tử Edward đã bị đánh bại và bị bắt làm tù binh. De Montfort triệu tập Đại hội đồng, được công nhận là Quốc hội đầu tiên vì đây là lần đầu tiên các thành phố và quận cử đại diện.[65] Edward trốn thoát, tập hợp quân đội và đánh bại và giết chết de Montfort trong trận Evesham năm 1265.[66]
Sự trừng phạt tàn bạo đã giáng xuống những kẻ nổi loạn, và quyền lực được phục hồi cho Henry. Với vương quốc giờ đã yên bình, Edward rời khỏi Anh để gia nhập Louis IX trong Cuộc Thập tự chinh lần thứ chín; ông là một trong những người thập tự chinh cuối cùng. Louis qua đời trước khi Edward đến, nhưng Edward quyết định tiếp tục. Kết quả trở nên thất vọng khi lực lượng nhỏ bé của Edward chỉ giúp ông chiếm được Acre và tiến hành một số cuộc đột kích. Sống sót sau một vụ ám sát, Edward rời đi Sicilia vào cuối năm đó, không bao giờ tham gia vào một cuộc thập tự chinh nào khák. Khi Henry III qua đời, Edward lên ngôi, và các nam tước đã thề trung thành với Edward mặc dù ông đã không trở về trong hai năm.[66]
Edward I kết hôn với Leonor của Castilla, con gái của Fernando III của Castilla, chắt của Henry II thông qua người con gái thứ hai là Eleanor vào năm 1254. Edward và Leonor có mười sáu người con; năm người con gái sống sót đến tuổi trưởng thành, nhưng chỉ có một người con trai sống sót là Edward:[67]
Sau khi Leonor qua đời vào năm 1290, Edward kết hôn với Marguerite, con gái của Philippe III của Pháp, vào năm 1299. Edward và Marguerite có hai người con trai, cả hai đều sống đến tuổi trưởng thành, và một người con gái qua đời khi còn nhỏ:[68]
Bằng chứng về việc Edward tham gia vào cải cách pháp luật rất khó tìm, nhưng triều đại của ông đã chứng kiến một chương trình thay đổi pháp luật lớn. Phần lớn động lực và quyết tâm có thể đến từ nhà vua và kinh nghiệm của ông về phong trào cải cách nam tước vào cuối những năm 1250 và đầu những năm 1260. Với Đạo luật Mortmain, Edward đã áp đặt quyền lực của mình lên Giáo hội; các quy chế cấm hiến đất cho Giáo hội, khẳng định quyền của Vương quyền bằng cách hy sinh các đặc quyền phong kiến truyền thống, thúc đẩy việc quản lý công lý thống nhất, tăng thu nhập và hệ thống hóa hệ thống pháp luật. Các chiến dịch quân sự khiến ông phải nợ rất nhiều và khi Philippe IV của Pháp tịch thu Công quốc Gascogne vào năm 1294, Edward cần tiền để tiến hành chiến tranh ở Pháp. Khi Edward triệu tập một hội đồng thiết lập tiền lệ để tăng thêm thuế cho tài chính quân sự, ông đã đưa chủ đất và thương gia vào. Quốc hội bao gồm các nam tước, giáo sĩ, hiệp sĩ và thị dân vào lần đầu tiên.[69]
Khi lên ngôi, Edward I đã tìm cách tổ chức vương quốc của mình, thực thi các yêu sách về quyền tối cao của mình ở Quần đảo Anh. Llywelyn ap Gruffudd tuyên bố cai trị Bắc Wales "hoàn toàn tách biệt" khỏi Anh nhưng Edward coi ông là "kẻ nổi loạn và phá hoại hòa bình". Quyết tâm, kinh nghiệm quân sự và các cuộc điều động hải quân khéo léo của Edward đã chấm dứt cuộc nổi loạn mà ông coi là cuộc nổi loạn. Cuộc xâm lược được thực hiện bởi một trong những đội quân lớn nhất từng được một vị vua Anh tập hợp, bao gồm kỵ binh Anh-Norman và cung thủ xứ Wales và đặt nền tảng cho những chiến thắng trong tương lai ở Pháp. Llywelyn bị đẩy vào vùng núi, sau đó tử trận. Đạo luật Rhuddlan thiết lập quyền lực của Anh đối với xứ Wales, và con trai của Edward ngay khi chào đời được tuyên bố là Thân vương xứ Wales đầu tiên của Anh. Edward đã chi một khoản tiền lớn cho hai chiến dịch tại Wales, trong đó phần lớn được chi cho một mạng lưới lâu đài.[70]
Edward khẳng định rằng vua Scotland nợ ông lòng trung thành phong kiến, và có ý định hợp nhất hai quốc gia bằng cách gả con trai mình là Edward với Margaret, người thừa kế duy nhất của vua Alexander III.[71] Khi Margaret qua đời vào năm 1290, cuộc cạnh tranh giành ngai vàng Scotland nổ ra. Theo lời mời của các đại thần Scotland, Edward I đã giải quyết tranh chấp, phán quyết có lợi cho John Balliol, người đã tuyên thệ trung thành với Edward và trở thành vua. Edward khẳng định rằng ông là quốc vương của Scotland và có quyền thụ lý các kháng cáo chống lại phán quyết của Balliol, làm suy yếu thẩm quyền của Balliol. Balliol liên minh với Pháp vào năm 1295; Edward xâm lược Scotland vào năm sau đó, phế truất và lưu đày Balliol.[72]
Edward ít thành công hơn ở Gascogne, nơi bị Pháp chiếm đóng. Với nguồn lực cạn kiệt, Edward buộc phải xác nhận lại Hiến chương, bao gồm cả Magna Carta, để có được nguồn tiền cần thiết. Năm 1303, vua Pháp đã trả lại Gascogne cho Edward bằng cách ký Hiệp ước Paris. Trong khi đó, William Wallace nổi dậy nhân danh Balliol và giành lại hầu hết Scotland. Wallace bị đánh bại tại Trận Falkirk, sau đó Robert the Bruce nổi loạn và lên ngôi vua Scotland. Edward qua đời khi đang trên đường đến Scotland để tham gia một chiến dịch khák.[73]
Lời tuyên thệ đăng quang của Edward II khi kế vị vào năm 1307 là lời tuyên thệ đầu tiên phản ánh trách nhiệm của nhà vua trong việc duy trì luật pháp mà cộng đồng "đã lựa chọn" (aura eslu trong tiếng Pháp).[74] Ban đầu, ông không phải là người không được ưa chuộng nhưng phải đối mặt với ba thách thức: sự bất mãn về việc tài trợ cho chiến tranh; chi tiêu cho đoàn hầu cận và vai trò của sủng thần Piers Gaveston.[75] Khi Quốc hội quyết định lưu đày Gaveston, nhà vua không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải tuân thủ theo.[76] Edward đã sắp xếp để đưa Gaveston trở về, nhưng buộc phải đồng ý bổ nhiệm Ordainer, do anh họ của ông là Thomas, Bá tước thứ 2 của Lancaster đứng đầu, để cải tổ hoàng gia với việc Piers Gaveston lại bị lưu đày.[75]
Khi Gaveston trở về Anh, ông đã bị bắt cóc và bị hành quyết sau một phiên tòa giả định.[76] Hậu quả của việc này đã đẩy Thomas và những người ủng hộ ông ra khỏi quyền lựk. Thất bại nhục nhã của Edward trước Bruce tại Trận Bannockburn năm 1314, xác nhận vị thế của Bruce là một vị vua độc lập của người Scotland, dẫn đến việc Lancaster được bổ nhiệm làm người đứng đầu hội đồng của nhà vua.[75] Cuối cùng Edward đã bãi bỏ các Sắc lệnh sau khi đánh bại và hành quyết Lancaster trong Trận Boroughbridge năm 1322.[75]
Chế độ quân chủ Pháp khẳng định quyền xâm phạm các quyền hợp pháp của Edward ở Gascogne. Sự phản đối một phán quyết tại Saint-Sardos đã dẫn đến việc Charles IV tuyên bố công quốc bị tịch thu. Em gái của Charles là Isabelle được cử đi đàm phán và đồng ý một hiệp ước yêu cầu Edward phải thần phục Charles tại Pháp. Edward nhường Aquitaine và Ponthieu cho con trai mình là Edward III, người đã đến Pháp để thần phục thay ông. Với người thừa kế người Anh trong tay, Isabelle từ chối trở về Anh trừ khi Edward II sa thải các sủng thần, và bà trở thành tình nhân của Roger Mortimer.[75]
Cặp đôi xâm lược nước Anh và cùng với Henry, Bá tước thứ 3 xứ Lancaster bắt giữ nhà vua.[77] Edward II thoái vị với điều kiện con trai ông sẽ thừa kế ngai vàng thay vì Mortimer. Mặc dù không có ghi chép lịch sử nào về nguyên nhân cái chết, nhưng Edward II được tin là đã bị sát hại tại Lâu đài Berkeley bằng cách đâm một cây cời nóng vào ruột.[78] Một cuộc đảo chính của Edward III đã chấm dứt bốn năm kiểm soát của Isabelle và Mortimer. Mortimer sau đó bị xử tử. Mặc dù bị tước quyền lực, nhưng Isabelle vẫn được đối xử tốt và sống trong xa hoa trong 27 năm tiếp theo.[75]
Năm 1328, Charles IV của Pháp qua đời mà không có người thừa kế nam. Vương hậu Isabelle tuyên bố lên ngôi Quốc vương Pháp thay mặt cho con trai là Edward, với lý do Edward là cháu ngoại của Philippe IV của Pháp. Tuy nhiên, tiền lệ được thiết lập bởi sự kế vị của Philippe V đối với cháu gái là Juana II của Navarra và việc Charles IV kế vị các cháu gái của mình có nghĩa là cháu trai cả của Philippe III trong dòng dõi nam, Phillippe xứ Valois trở thành vua. Khi chưa nắm quyền, Edward đã tỏ lòng tôn kính Phillippe với tư cách là Công tước xứ Aquitaine.
Năm 1337, Phillippe tịch thu Aquitaine và Ponthieu từ Edward với cáo buộc ông đang chứa chấp người anh em họ và kẻ thù chạy trốn của Phillippe là Robert xứ Artois. Đáp lại, Edward tự xưng là vua của Pháp để khuyến khích người Flemish nổi dậy chống lại vua Pháp. Cuộc xung đột, sau này được gọi là Chiến tranh Trăm Năm, bao gồm một chiến thắng hải quân quan trọng của Anh tại Trận Sluys,[79] và chiến thắng trên đất liền tại Crécy, để Edward tự do chiếm được cảng Calais quan trọng. Chiến thắng tiếp theo trước Scotland tại Trận Neville's Cross đã dẫn đến việc bắt giữ David II và làm giảm mối đe dọa từ Scotland.[79] Cái Chết Đen đã ngăn chặn các chiến dịch của Edward bằng cách giết chết có thể là một phần ba số thần dân của ông.[79] Người thuộc dòng họ Plantagenet duy nhất được biết là đã qua đời vì Cái Chết Đen là con gái của Edward III là Joan tại Bordeaux.[79]
Cuộc hôn nhân của Edward III và Philippa xứ Hainault đã sinh ra mười ba người con và ba mươi hai người cháu:
Sau cái chết của Blanche năm 1369, John kết hôn với Constanza của Castilla, cố gắng không thành công để có được ngai vàng Castilla. Cuộc hôn nhân thứ hai sinh ra hai người con:
Constanza qua đời vào năm 1394, sau đó John kết hôn với Katherine Swynford vào ngày 13 tháng 1 năm 1396. Bốn người con của họ được sinh ra trước khi họ kết hôn. Giáo hoàng đã hợp pháp hóa họ vào năm 1396, cũng như Richard II đã làm hiến chương với điều kiện là con cái của họ không được lên ngôi:
Triều đại lâu dài của Edward đã tạo nên một bản sắc dân tộc mới, được củng cố bởi tiếng Anh trung đại bắt đầu khẳng định vị thế là ngôn ngữ nói và viết của chính phủ. Do đó, về mặt văn hóa, ông được nhiều nhà sử học coi là người cai trị 'Anh' đầu tiên sau cuộc chinh phục.[80]
Con trai mười tuổi của Vương tử đen nối ngôi với tư cách là Richard II của Anh sau cái chết của ông nội, trên danh nghĩa thực hiện tất cả các quyền lực của vương quyền được hỗ trợ bởi các hội đồng khác nhau. Việc chính phủ của Richard đánh thuế thân để tài trợ cho các chiến dịch quân sự, kết hợp với tình trạng kinh tế nghèo nàn đã dẫn đến cuộc nổi dậy của nông dân vào năm 1381, sau đó là những cuộc trả thù tàn bạo chống lại phiến quân.[81]
Chú của nhà vua là Thomas xứ Woodstock, Công tước thứ nhất của Gloucester, Richard FitzAlan, Bá tước thứ 11 xứ Arundel và Thomas de Beauchamp, Bá tước thứ 12 của Warwick, được biết đến với tư cách là Lords Appellant khi họ tìm cách luận tội năm vị sủng thần của vua và kiềm chế những gì ngày càng được coi là sự cai trị độc đoán và thất thường. Sau đó, họ được tham gia bởi Henry Bolingbroke, con trai và người thừa kế của John xứ Gaunt, và Thomas de Mowbray, Công tước thứ 1 xứ Norfolk. Ban đầu, họ đã thành công trong việc thành lập một ủy ban để cai trị nước Anh trong một năm, nhưng họ buộc phải nổi dậy chống lại Richard, đánh bại một đội quân dưới quyền của Robert de Vere, Bá tước xứ Oxford ttrong cuộc giao tranh tại cầu Radcot.[82]
Richard đã bị hạ xuống thành một người đứng đầu với ít quyền lựk. Trong kết quả của Nghị viện Không thương tiếc, de Vere và Michael de la Pole, Bá tước thứ 1 xứ Suffolk, người đã trốn ra nước ngoài, đã bị kết án tử hình vắng mặt. Alexander Neville, Tổng Giám mục York, đã bị tịch thu tất cả tài sản. Một số hội đồng của Richard đã bị xử tử. Khi John xứ Gaunt trở về từ Tây Ban Nha, Richard đã có thể thiết lập lại quyền lực của mình, khiến Gloucester bị sát hại khi bị giam cầm ở Calais. Warwick bị mất đi tước hiệu, còn Bolingbroke và Mowbray bị lưu đày.[83]
Khi John xứ Gaunt qua đời vào năm 1399, Richard đã tước quyền thừa kế của con trai John là Henry, người đã xâm lược Anh để đáp trả bằng một lực lượng nhỏ nhưng nhanh chóng tăng về số lượng. Gặp ít sự kháng cự, Henry phế truất Richard để tự mình lên ngôi vua, trở thành Henry IV của Anh. Richard qua đời trong cảnh giam cầm vào đầu năm sau đó, có thể là bị sát hại, và qua đó chấm dứt dòng dõi Plantagenet chính. Không ai trong số những người thừa kế của Henry thoát khỏi sự thách thức với lý do không phải là người thừa kế thực sự của Richard II, và triều đại Lancaster đã giành được ngai vàng bằng một hành động cướp ngôi.[84]