Tước hiệu đầy đủ của ông là "Bệ hạ Farouk I, nhờ ân sủng của Chúa, Vua của Ai Cập và Sudan". Là vua, Farouk nổi tiếng với lối sống ăn chơi xa hoa. Mặc dù ban đầu được nhiều người biết đến nhưng danh tiếng của ông đã bị xói mòn do sự tham nhũng và kém cỏi của chính phủ. Ông bị lật đổ trong cuộc đảo chính năm 1952, và buộc phải thoái vị để nhường ngôi cho đứa con trai mới sinh của mình, Ahmed Fuad, lên ngôi với vương hiệu Fuad II. Farouk chết lưu vong ở Ý năm 1965.
^Whiteman, Marjorie Millace; Hackworth, Green Haywood (1963). Digest of International Law(snippet view). 2. U.S. State Department. tr. 64. OCLC79506166. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2010. The Egyptian Parliament amended the Constitution by Law 176 of 16 October 1951, to provide that the title of the King should be 'King of Egypt and the Sudan' instead of 'King of Egypt, Sovereign of Nubia, Sudan, Kordofan and Darfur'.
Buhite, Russell (1986). Decisions at Yalta an appraisal ical of summit diplomacy. Wilmington: Scholarly Resources.
Gordon, Joel (1989). “The Myth of the Savior: Egypt's "Just Tyrants" on the Eve of Revolution, January–July 1952”. The Journal of the American Research Center in Egypt. 26: 223–237. doi:10.2307/40000710. JSTOR40000710.
Mayer, Thomas (tháng 1 năm 1986). “Egypt's 1948 Invasion of Palestine”. Middle Eastern Studies. 22 (1): 20–38. doi:10.1080/00263208608700648.
Thornhill, Michael T. (2010). “Informal Empire, Independent Egypt and the Accession of King Farouk”. Journal of Imperial and Commonwealth History. 38 (2): 279–302. doi:10.1080/03086531003743981. S2CID153729344.
الملك فاروق الأول [King Farouk I] (bằng tiếng Ả Rập). Bibliotheca Alexandrina: Memory of Modern Egypt Digital Archive. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2010.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Farouk của Ai Cập.