Gnatholepis cauerensis

Gnatholepis cauerensis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Gobiiformes
Họ (familia)Gobiidae
Chi (genus)Gnatholepis
Loài (species)G. cauerensis
Danh pháp hai phần
Gnatholepis cauerensis
(Bleeker, 1853)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Gobius cauerensis Bleeker, 1853
  • Gnatholepis scapulostigma Herre, 1953
  • Gnatholepis inconsequens Whitley, 1958
  • Gnatholepis hawaiiensi Randall & Greenfield, 2001

Gnatholepis cauerensis là một loài cá biển thuộc chi Gnatholepis trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh cauerensis được đặt theo tên gọi của làng Cauer, nằm trên bờ biển phía tây nam đảo Sumatra (nay thuộc Bengkulu), nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–ensis: hậu tố trong tiếng Latinh biểu thị nơi chốn).[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

G. cauerensis có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Yemen dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến tận quần đảo Hawaiiquần đảo Pitcairn, xa về phía bắc đến Nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), phía nam đến Nam PhiÚc.[3]Việt Nam, G. cauerensis được ghi nhận tại vịnh Nha Trang[4]Ninh Thuận.[5]

G. cauerensis sống trên nền đáy cát của rạn san hô, gần các tảng đá hoặc cụm san hô, độ sâu đến ít nhất là 58 m.[1]

Tình trạng phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Randall và Greenfield (2001) chỉ xem quần thể Hawaii như một phân loài của G. cauerensis do có cuống đuôi ngắn hơn (so theo chiều dài đầu), ở vây đuôi có một sọc sẫm màu dọc theo màng giữa các tia thay vì các đốm đen và có thêm các đốm nhỏ màu xanh óng ở thân dưới. Sau đó Randall (2009) đã nâng quần thể này lên thành bậc loài với danh pháp G. hawaiiensis. Larson và Buckle (2012) cho rằng không có sự khác biệt nhất quán về chiều dài cuống đuôi giữa bất kỳ loài Gnatholepis nào. Các vệt, hàng đốm đen trên vây đuôi G. cauerensis rất khác nhau, và mẫu vật Hawaii lại tương đồng với mẫu vật từ quần đảo Ogasawara, ngoài khơi ÚcFiji. Những đốm nhỏ màu xanh ở phần dưới của đầu và thân cũng khác nhau, những mẫu vật có sắc tố đậm hơn thường xuất hiện những đốm nhạt này.[3]

Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở G. cauerensis là 6 cm.[6] Loài này có màu trắng, thân trong mờ với 5–7 hàng đốm nhỏ và/hoặc các vạch có màu sắc khác nhau (cam sẫm, nâu, đỏ nâu đến đen nhạt). Cùng với đó là khoảng 6 vệt đốm mờ màu nâu cam đến nâu tía dọc thân. Vạch đen dọc phía trên mỗi mắt có thể nối với nhau qua giữa hai hốc mắt, và một vạch khá băng qua má bên dưới mắt. Một vệt sẫm màu nhỏ (thường là hình chữ W) phía trên gốc vây ngực, với một đốm nhỏ màu vàng ở giữa.

Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 10–11; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 10–12; Số tia vây ngực: 12–18; Số vảy đường bên: 24–30.[3]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

G. cauerensis sống đơn độc hoặc hợp thành nhóm. Thức ăn của G. cauerensis là các loài thủy sinh không xương sống nhỏ, vụn hữu cơtảo.[6]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Acero, A.; Dominici-Arosemena, A. & Murdy, E. (2017) [2010]. Gnatholepis cauerensis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T154848A115242256. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T154848A4649849.en. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2024.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2023). “Order Gobiiformes: Family Oxudercidae (a-o)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ a b c Larson, Helen K.; Buckle, Duncan J. (2012). “A revision of the goby genus Gnatholepis Bleeker (Teleostei, Gobiidae, Gobionellinae), with description of a new species” (PDF). Zootaxa. 3529 (1): 1–69. doi:10.11646/zootaxa.3529.1.1. ISSN 1175-5334.
  4. ^ Đỗ Thị Cát Tường; Nguyễn Văn Long (2015). “Đặc điểm thành phần loài và phân bố của họ Cá bống trắng (Gobiidae) trong các rạn san hô ở vịnh Nha Trang” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 21 (2): 124–135.
  5. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  6. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Gnatholepis cauerensis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Mai Sơn Thất Quái và kế hoạch chu toàn của Dương Tiễn.
Mai Sơn Thất Quái và kế hoạch chu toàn của Dương Tiễn.
Tại True Ending của Black Myth: Wukong, chúng ta nhận được cú twist lớn nhất của game, hóa ra Dương Tiễn không phải phản diện mà trái lại, việc tiếp nhận Ý thức của Tôn Ngộ Không
Lý do không ai có thể đoán được thị trường
Lý do không ai có thể đoán được thị trường
Thực tế có nhiều ý kiến trái chiều về chủ đề này, cũng vì thế mà sinh ra các trường phái đầu tư khác nhau
Nhân vật Tooru Mutsuki trong Tokyo Ghoul
Nhân vật Tooru Mutsuki trong Tokyo Ghoul
Mucchan là nữ, sinh ra trong một gia đình như quần què, và chịu đựng thằng bố khốn nạn đánh đập bạo hành suốt cả tuổi thơ và bà mẹ
Sơ lược về White Room - Classroom of the Elite
Sơ lược về White Room - Classroom of the Elite
White Room (ホワイトルーム, Howaito Rūmu, Việt hoá: "Căn phòng Trắng") là một cơ sở đào tạo và là nơi nuôi nấng Kiyotaka Ayanokōji khi cậu còn nhỏ