Trong các hệ thống phân loại khác, nó từng là một phần của họ Scrophulariaceaenghĩa rộng hay gần đây hơn là một phần của họ Plantaginaceaenghĩa rộng, nhưng một số tác giả lại chứng minh rằng đơn vị phân loại này nên được tách ra[2][3] từ các họ kể trên, như là họ mới, gọi là Linderniaceae,[4] và hiện tại nó được Haston và ctv. 2007 công nhận (gọi là LAPG II) như là "họ hậu-APG II"[5] và trong Hệ thống APG III.[1]
Các chi đa dạng nhất bao gồm Vandellia (55 loài), Torenia (51 loài), Crepidorhopalon (30 loài), Lindernia nghĩa hẹp (30 loài).
Các chi dưới đây lấy theo GRIN[6] và APG, với sự phục hồi các chi Bonnaya, Vandellia và định nghĩa chi mới Linderniella từ một phần chi Lindernia nghĩa rộng đa ngành:[7]
Artanema D.Don (bao gồm cả Ourisianthus): 3 loài vừng đất.
Cây phát sinh chủng loài trong phạm vi họ Lữ đằng dưới đây dựa theo Fischer và ctv. (2013), với hiệu chỉnh (với Yamazakia) theo Barker và ctv. (2018):[7][10]
^Oxelman, B.; Kornhall, P.; Olmstead, R. G.; Bremer, B. (2005). “Further disintegration of Scrophulariaceae”. Taxon. 54 (2): 411–425. doi:10.2307/25065369. JSTOR25065369.
^Rahmanzadeh, R.; Müller, K.; Fischer, E.; Bartels, D.; Borsch, T. (2005). “The Linderniaceae and Gratiolaceae are further lineages distinct from the Scrophulariaceae (Lamiales)”. Plant Biology. 7 (1): 67–78. doi:10.1055/s-2004-830444. PMID15666207.
^Haston E., Richardson J. E., Stevens P. F., Chase M. W., Harris D. J. (2007). “A linear sequence of Angiosperm Phylogeny Group II families”. Taxon. 56 (1): 7–12.
Sự phát triển của loài người đã trải qua nhiều thời kỳ đồ đá, đồ đồng....và bây giờ là thời dầu mỏ. Khác với vàng, dầu mỏ dùng để sản xuất, tiêu thụ, hoạt động