Hồ Victoria

Hồ Victoria
Địa lý
Khu vựcChâu Phi
Tọa độ1°N 33°Đ / 1°N 33°Đ / -1; 33
Nguồn cấp nước chínhSông Kagera
Nguồn thoát đi chínhSông Nin Trắng (hay "Victoria Nile" khi nó chảy ra khỏi hồ)
Lưu vực184.000 km2 (71.000 dặm vuông Anh)
238.900 km2 (92.200 dặm vuông Anh)
Quốc gia lưu vựcTanzania
Uganda
Kenya
Độ dài tối đa337 km (209 mi)
Độ rộng tối đa250 km (160 mi)
Diện tích bề mặt68.800 km2 (26.600 dặm vuông Anh)
Độ sâu trung bình40 m (130 ft)
Độ sâu tối đa83 m (272 ft)
Dung tích2.750 km3 (660 mi khối)
Cao độ bề mặt1.133 m (3.717 ft)
Các đảo3/000 (Quần đảo Ssese Uganda)
Khu dân cưBukoba, Tanzania
Mwanza, Tanzania
Musoma, Tanzania
Kisumu, Kenya
Kendu Bay, Kenya
Homa Bay, Kenya
Kampala, Uganda
Entebbe, Uganda
Jinja, Uganda

Hồ Victoriadiện tích 69.000 km², chu vi 3.440 km. Victoria là hồ nước ngọt lớn nhất châu Phi và thứ nhì thế giới, nằm trong vùng thuộc biên giới các quốc gia Uganda, KenyaTanzania. Nửa phía bắc thuộc Uganda, nửa phía nam thuộc Tanzania, và một phần đông bắc thuộc Kenya.

Hồ Victoria nhận nước chủ yếu từ nước mưa trực tiếp và hàng ngàn sông suối nhỏ. Sông lớn nhât chảy vào hồ là sông Kagera, châu thổ của nó nằm ở bờ tây của hồ. Hai sông chảy ra khỏi hồ là Nile trắng (hay "Victoria Nile"), chảy ra tại Jinja, Uganda trên bờ bắc của hồ, và sông Katonga chảy ra tại Lukaya ở bờ tây của hồ nối với Hồ George.[1]

Hồ Victoria nằm ở của châu Phi và có độ sâu lớn nhất 84 m (276 ft) và độ sâu trung bình 40 m (130 ft).[2] Lưu vực của nó là 184.000 km2. Hổ có chu vi 4.828 km (3.000 mi), với các đảo chiếm 3,7% chiều dài này,[3] và nó thuộc 3 quốc gia: Kenya (6% hay 4,100 km2 hay 1,583 dặm vuông Anh), Uganda (45% hay 31,000 km2 hay 11,969 dặm vuông Anh) và Tanzania (49% hay 33,700 km2 hay 13,012 dặm vuông Anh).[4]

Địa chất

[sửa | sửa mã nguồn]
Ảnh hồ Victory do Landsat 7 chụp

Hồ Victoria đã trải qua những thay đổi từ độ nông hiện tại từ một loạt các hồ nhỏ hơn.[3] Các mẫu lõi khoan được lấy từ đáy cho thấy hồ Victoria đã từng bị khô hoàn toàn vào ít nhất 3 thời kỳ kể từ khi nó hình thành.[5] Các giai đoạn khô có thể liên quan đến các thời kỳ băng hà cổ đã xảy ra nhiều lần khi lượng giáng thủy giảm trên toàn cầu.[5] Lần gần đây nhất hồ Victoria khô là cách nay 17.300 năm, và nó dâng lên bắt đầu vào khoảng cách nay 14.700 năm. Về mặt địa chất, hồ Victoria tương đối trẻ – khoảng 400.000 năm tuổi – và nó đã hình thành khi các dòng sông chảy về phía tây bị ngăn đập bởi các khối nâng lên của vỏ trái đất.[5]

Hồ Victoria và Thung lũng tách giãn Lớn

Lịch sử địa chất này có thể góp phần cho sự biệt hoá sâu sắc của các loài cichlidae, những loài đặc trưng cho hệ sinh thái hồ, cũng như của các hồ lớn khác của châu Phi,[6] mặc dù một số nhà nghiên cứu không đồng ý về quan điểm này. Những người này cho rằng trong khi mực nước hồ Victoria ở mức thấp nhất vào khoảng cách nay 18.000 đến 14.000 năm, và nó đã khô ít nhất một lần trong khoảng thời gian này, không có dấu hiệu nào cho rằng các ao còn lại hoặc đầm lầy còn tồn tại trong hồ bị khô. Nếu những ao hay đầm lầy còn tồn tại thì sau đó chúng có thể là nhỏ, nông, đục, và/hoặc mặn, và do đó có các loài còn tồn tại trong hồ sẽ có sự khác biệt đáng kể với những loài thích nghi được có mặt ngày nay.[7]

Thủy văn học và hồ học

[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Victoria nhận 80% trong tổng lượng nước vào từ nước mưa trực tiếp.[3] Lượng bốc hơi trong hồ từ 2,0 và 2,2 mét (6,6 và 7,2 ft) mỗi năm, gần gấp đôi lượng mưa của khu vực riparian.[8] Phần thuộc Kenya, các sông ảnh hưởng chính gồm sông Sio, Nzoia, Yala, Nyando, Sondu Miriu, MogusiMigori. Tính tổng, các sông này cung cấp lượng nước lớn hơn nhiều cho hồ so với sông lớn nhất chảy vào hồ là sông Kagera.[9]

Hồ thể hiện các điều kiện phú dưỡng. Năm 1990–1991, nồng độ oxy trong lớp hỗn hợp cao hơn trong giai đoạn 1960–1961, với lượng oxy siêu hòa tan gần như liên tục trong tần nước mặt. Nồng độ oxy trong tầng Hypolimnion (như tầng nằm bên dưới đường nhiệt, không được tuần hoàn, và duy trì lạnh vĩnh viễn) thấp hơn năm 1990–1991 trong giai đoạn dài so với 1960–1961, với giá trị thấp hơn 1 mg/l xưất hiện trong tầng nước nông khoảng 40 mét (130 ft) so với sự xuất hiện nông nông nhất ở độ sâu lớn hơn 50 mét (160 ft) năm 1961. Sự thay đổi oxy được xem là phù hợp với các số liệu đo đạc lượng sinh khối tảo và năng suất cao hơn.[10] Những thay đổi này đã phát sinh vì nhiều lý do: gia tăng đốt cháy trong lưu vực,[11] bồ hóng và tro đã tích tụ trên phần lớn diện tích hồ; từ sự gia tăng dinh dưỡng của các dòng chảy đổ vào hồ,[12] và do sự gia tăng ô nhiễm liên quan đến các khu định cư ven hồ.

Đập Nalubaale

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2002, Uganda đã hoàn thành phức hợp thủy điện thứ hai trong khu vực, nhà máy điện Kiira do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Đến năm 2006, mực nước hồ đã đạt mức thấp nhất trong vòng 80 năm, và Daniel Kull, một nhà thủy văn nghiên cứu độc lập sống ở Nairobi, Kenya, đã tính toán rằng Uganda đã giải phóng lượng nước gấp 2 lần mức cho phép so với thỏa thuận,[13] và là lý do cơ bản làm mực nước hồ hạ thấp.

Các đảo nhỏ trên hồ

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều đảo nhỏ trên hồ có thắng cảnh đẹp, là nơi du lịch và an dưỡng. Quanh hồ có nhiều di tích tiền sử cho thấy vào thời xa xưa nơi đây đã có hoạt động nông nghiệp.

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhìn từ vũ trụ
Những đảo nhỏ

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ J.-P. vanden Bossche, G. M. Bernacsek (1990). “Lake Victoria”. Source book for inland fishery resources of Africa. Volume 1. CIFA Technical Paper No. 18/1. Food and Agricultural Organization. tr. 83–87. ISBN 92-5-102983-0.
  2. ^ United Nations, Development and Harmonisation of Environmental Laws Volume 1: Report on the Legal and Instituional Issues in the Lake Victoria Basin, United Nations, 1999, page 17
  3. ^ a b c C. F. Hickling (1961). Tropical Inland Fisheries. London: Longmans.
  4. ^ J. Prado, R. J. Beare, J. Siwo Mbuga & L. E. Oluka, 1991. A catalogue of fishing methods and gear used in Lake Victoria. UNDP/FAO Regional Project for Inland Fisheries Development (IFIP), FAO RAF/87/099-TD/19/91 (En). Rome, Food and Agricultural Organisation.
  5. ^ a b c John Reader (2001). Africa. Washington, D.C.: National Geographic Society. tr. 227–228. ISBN 0-7922-7681-7.
  6. ^ Christian Sturmbauer, Sanja Baric, Walter Salzburger, Lukas Rüber & Erik Verheyen (2001). “Lake level fluctuations synchronize genetic divergences of cichlid fishes in African lakes” (PDF). Molecular Biology and Evolution. 18: 144–154. PMID 11158373. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2013.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  7. ^ J. C. Stager & T. C. Johnson (2008). “The late Pleistocene desiccation of Lake Victoria and the origin of its endemic biota”. Hydrobiologia. 596 (1): 5–16. doi:10.1007/s10750-007-9158-2.
  8. ^ Simeon H. Ominde (1971). “Rural economy in West Kenya”. Trong S. H. Ominde (biên tập). Studies in East African Geography and Development. London: Heinemann Educational Books Ltd. tr. 207–229. ISBN 0-520-02073-1.
  9. ^ P. J. P. Whitehead (1959). “The river fisheries of Kenya 1: Nyanza Province”. East African Agricultural and Forestry Journal. 24 (4): 274–278.
  10. ^ R. E. Hecky, F. W. B. Bugenyi, P. Ochumba, J. F. Talling, R. Mugidde, M. Gophen and L. Kaufman (1994). “Deoxygenation of the deep water of Lake Victoria, East Africa”. Limnology and Oceanography. 39 (6): 1476–1481. JSTOR 2838147.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  11. ^ R. E. Hecky (1993). “The eutrophication of Lake Victoria”. Verhandlungen der Internationale Vereinigung für Limnologie. 25: 39–48.
  12. ^ Peter B. O. Ochumba & David I. Kibaara (1989). “Observations on blue-green algal blooms in the open waters of Lake Victoria, Kenya”. African Journal of Ecology. 27 (1): 23–34. doi:10.1111/j.1365-2028.1989.tb00925.x.
  13. ^ Fred Pearce (ngày 9 tháng 2 năm 2006). “Uganda pulls plug on Lake Victoria”. New Scientist. 2538: 12. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2013.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
14 đỉnh núi linh thiêng nhất thế giới (phần 2)
14 đỉnh núi linh thiêng nhất thế giới (phần 2)
Là những vị khách tham quan, bạn có thể thể hiện sự kính trọng của mình đối với vùng đất bằng cách đi bộ chậm rãi và nói chuyện nhẹ nhàng
Định Luật Hubble - Thứ lý thuyết có thể đánh bại cả Enstein lẫn thuyết tương đối?
Định Luật Hubble - Thứ lý thuyết có thể đánh bại cả Enstein lẫn thuyết tương đối?
Các bạn có nghĩ rằng các hành tinh trong vũ trụ đều đã và đang rời xa nhau không
[Guide] Hướng dẫn build Layla (Khiên Support) - Genshin Impact
[Guide] Hướng dẫn build Layla (Khiên Support) - Genshin Impact
Layla là đại diện hoàn hảo cho tôi ở trường, lol (có lẽ tôi nên đi ngủ sớm hơn)
Hướng dẫn du hí tại Đài Loan
Hướng dẫn du hí tại Đài Loan
Trước tiên tôi sẽ thu thập các món ăn ngon nổi tiếng ở Đài Loan và địa điểm sẽ ăn chúng