Hang hay hang động là một khoảng trống tự nhiên đủ lớn trong lòng đất [1][2]. Không có ấn định chặt chẽ về kích thước của khoảng trống, nhưng người ta coi khoảng trống là hang khi một người có thể ra vào được, mặc dù không có chỉ định rõ ràng về tầm vóc người đó.
Hang hốc là từ được dùng để chỉ vùng đất có nhiều khoảng trống với kích thước của hang và nhỏ hơn hang - tức hốc.
Hang luồn là hang có các cửa ở ít nhất hai đầu hang, và có thể đi qua rồi thoát khỏi hang mà không cần quay lại.
Phần lớn các hang được hình thành do quá trình kiến tạo địa chất của Trái Đất từ cách đây hàng triệu năm. Do sự biến đổi của vỏ Trái Đất kéo theo hàng loạt sự đứt gãy và hoạt động tạo núi, cũng như sự phun trào của các núi lửa đã hình thành ra các dãy núi.
Trong các khối núi thì thành phần vật liệu có thể rất khác nhau, trong đó có những phần dễ bị phong hóa có thể hòa tan vào nước ngầm và bị cuốn đi, để lại khoảng trống giữa các phần chưa bị phong hóa. Qua hàng triệu năm, khoảng trống lớn dần, rồi tùy theo tình trạng kết cấu khối vòm mà vòm sụp xuống, hoặc đủ chắc để tạo ra hang đá.
Hang đá vôi: thường gọi là karst, là loại hang được hình thành trong các khối núi đá vôi do sự bào mòn hóa học, trong đó nước có chứa axit carbonic thấm hoặc chảy qua gây ra hòa tan calci trong đá vôi. Hầu hết hang trong tự nhiên là hang karst trong núi đá vôi.
Hang ống dung nham: là loại hang được hình thành do dung nhamnúi lửa khi phun trào bao phủ lên những lớp đất đá có trước thuộc loại dễ phong hóa hơn. Về sau đá dễ phong hóa bị rửa trôi, để lại những khoảng trống trong lòng nó.
Hang phong hóa: Loại hang được hình thành do sự xói mòn của các dòng chảy mang theo trầm tích qua các loại đá. Chúng có thể hình thành trong bất kỳ loại đá nào, kể cả đá cứng như đá granite. Dòng chảy ở đây thường là dòng nước hoặc dòng không khí. Sự xói mòn bởi gió thổi qua các khối đá có thể tạo ra hang gió.
Hang biển: Loại hang được hình thành do quá trình bào mòn của sóng biển lên những núi đá ở ven bờ biển.
Hang sông băng: Loại hang được hình thành bởi dòng chảy của nước làm tan băng trong và bên dưới các sông băng. Hang sông băng chỉ đến những hang động nằm hoàn toàn trong khối băng, khác với hang băng là những hang động có nền đá bị đóng băng quanh năm.
Hang Talus: Là khoảng trống được hình thành ngẫu nhiên bởi sự sụp đổ của một khối lượng đất đá lớn chồng lên nhau, thường thấy ở chân các vách đá cùng với đá vụn.
Hang Anchialin: Đây là loại hang ở ven biển, không giáp biển nhưng được kết nối ngầm với đại dương, thường chứa nước lợ hoặc nước mặn.
Các hang động phân bố trên toàn thế giới, mặc dù mật độ các hang động đã được khám phá nghiêng nhiều về những quốc gia mà hoạt động thám hiểm hang động đã trở nên phổ biến. Do đó, các hang động đã khám phá tập trung nhiều ở Châu Âu, Châu Á, Bắc Mỹ và Châu Đại Dương, nhưng lại thưa thớt ở Nam Mỹ, Châu Phi và Nam Cực.
Xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử loài người, ngay từ buổi sơ khai, những con người nguyên thủy đã sử dụng các hang đông làm nơi ở, che chở cho bản thân trước mưa, gió, bão, để tránh thú dữ..., và họ cũng đã dùng hang làm nơi chôn cất những người chết.
Một minh chứng rõ ràng là nhiều người nguyên thủy đã dùng hang Niah (Sarawak, Malaysia) làm nơi cư ngụ của mình cách đây hơn 40.000 năm.[7]
Chính vì là nơi cư trú của loài người từ xa xưa cho nên hang động có thể là nơi lưu giữ nhiều chứng tích về loài người cổ đại. Cho nên hang là những di chỉ khảo cổ rất có giá trị.
^Whitney, W. D. (1889). "Cave, n.1." def. 1. The Century dictionary: An encyclopedic lexicon of the English language (Vol. 1, p. 871). New York: The Century Co.
NSS Conservation Division[liên kết hỏng] Preserving and protecting caves and karst for cavers, scientific research, and the general public is one of the most important goals of the NSS.