Khủng bố Hồi giáo tại châu Âu

a wreath of flowers that highlight many other gifts of flowers and candles outside a short metal fence around the area of investigation
Tưởng niệm những người thiệt mạng trong các cuộc tấn công ở Île-de-France vào tháng 1 năm 2015

Khủng bố Hồi giáochâu Âu đã được Nhà nước Hồi giáo (ISIL) hoặc Al-Qaeda cũng như những con sói đơn độc Hồi giáo thực hiện kể từ cuối thế kỷ 20. Europol, tổ chức công bố báo cáo Xu hướng và Tình hình Khủng bố Liên minh Châu Âu (TE-SAT) hàng năm, đã sử dụng thuật ngữ "khủng bố Hồi giáo" trong những năm 2006–2010, "chủ nghĩa khủng bố lấy cảm hứng từ tôn giáo" 2011–2014 và đã sử dụng "khủng bố thánh chiến" kể từ năm 2015.[1] [a] [2] Europol định nghĩa chủ nghĩa thánh chiến là "một hệ tư tưởng bạo lực khai thác các khái niệm Hồi giáo truyền thống".[2]

Vào đầu những năm 2000, hầu hết các hoạt động khủng bố Hồi giáo đều có liên quan đến Al-Qaeda và các âm mưu có xu hướng liên quan đến các nhóm thực hiện các vụ đánh bom phối hợp. Các cuộc tấn công đẫm máu nhất trong thời kỳ này là vụ đánh bom xe lửa ở Madrid năm 2004, giết chết 193 thường dân (vụ tấn công Hồi giáo đẫm máu nhất ở châu Âu) và vụ đánh bom ở London ngày 7 tháng 7 năm 2005, giết chết 52 người.

Các vụ khủng bố Hồi giáo gia tăng ở châu Âu sau năm 2014.[3][4][5] Các năm 2014-16 chứng kiến nhiều người thiệt mạng vì các cuộc tấn công khủng bố Hồi giáo ở châu Âu hơn tất cả các năm trước cộng lại và tỷ lệ âm mưu tấn công cao nhất mỗi năm.[6] Hầu hết hoạt động khủng bố này được lấy cảm hứng từ ISIL,[6][7] và nhiều quốc gia châu Âu đã có một số liên quan đến cuộc can thiệp quân sự chống lại nó. Một số âm mưu liên quan đến những người nhập cảnh hoặc tái nhập cảnh châu Âu với tư cách tị nạn trong cuộc khủng hoảng di cư châu Âu,[7][8][9] và một số kẻ tấn công đã trở về châu Âu sau khi chiến đấu trong Nội chiến Syria.[7] Vụ nổ súngBảo tàng Do Thái của Bỉ vào tháng 5 năm 2014 là vụ tấn công đầu tiên ở châu Âu của một người trở về từ cuộc chiến Syria.[10]

Trong khi hầu hết các cuộc tấn công khủng bố Hồi giáo trước đó ở châu Âu được thực hiện bởi các nhóm và có liên quan đến bom, hầu hết các cuộc tấn công kể từ năm 2014 được thực hiện bởi các cá nhân sử dụng súng, dao và xe hơi.[11] Một ngoại lệ đáng chú ý là vụ nhóm Brussels, mà đã thực hiện hai vụ tấn công chết người nhất trong thời kỳ này.

Các vụ tấn công đẫm máu nhất trong giai đoạn này là vụ tấn công Paris tháng 11 năm 2015 (130 người thiệt mạng), vụ tấn công xe tải Nice tháng 7 năm 2016 (86 người thiệt mạng), vụ tấn công sân bay Atatürk tháng 6 năm 2016 (45 người chết), vụ đánh bom Brussels tháng 3 năm 2016 (32 người thiệt mạng), và vụ đánh bom Manchester Arena vào tháng 5 năm 2017 (22 người thiệt mạng). Những cuộc tấn công và mối đe dọa này đã dẫn đến các hoạt động và kế hoạch an ninh lớn như Opération Sentinelle ở Pháp, Chiến dịch Cảnh giác Hộ vệphong tỏa BrusselsBỉ, và Chiến dịch Temperer ở Vương quốc Anh.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ This corresponds to the reports released in 2007–2011, 2012–2015, and 2016 and onwards, respectively. The year in the TE-SAT title is the year it was released, which is the year after the year the events it deals with occurred.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “EU Terrorism Situation & Trend Report (Te-Sat)”. Europol (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  2. ^ a b “European Union Terrorism Situation and Trend report (TE-SAT) 2020”. Europol (bằng tiếng Anh). tr. 33, 35–36. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2020.
  3. ^ Emmanuel Guerisoli. "The New-Old Terror Wave in Europe". Public Seminar. ngày 13 tháng 9 năm 2017. Quote: "Europe is currently in a new expansionist phase of this latest cycle of terror. [...] The Brussels Jewish Museum attack in May 2014 is the first incident of this new expansive phase".
  4. ^ Maria do Céu Pinto Arena. Islamic Terrorism in the West and International Migrations: The 'Far' or 'Near' Enemy Within?. Robert Schuman Centre for Advanced Studies, May 2017. p.15.
  5. ^ "Deaths from terrorism in Europe have spiked since 2014". The Irish Times. ngày 16 tháng 6 năm 2017.
  6. ^ a b Petter Nesser, Anne Stenersen and Emilie Oftedal. "Jihadi Terrorism in Europe: The IS-Effect". Perspectives on Terrorism, volume 10, issue 6. December 2016. pp.3–4
  7. ^ a b c Seamus Hughes. "Allies Under Attack: The Terrorist Threat to Europe". Program on Extremism – George Washington University. ngày 27 tháng 6 năm 2017.
  8. ^ Maria do Céu Pinto Arena. Islamic Terrorism in the West and International Migrations: The 'Far' or 'Near' Enemy Within?. Robert Schuman Centre for Advanced Studies, May 2017. pp.15, 20
  9. ^ “Vurdering af terrortruslen mod Danmark”. pet.dk. Danish Security and Intelligence Service. tháng 1 năm 2018. tr. 5. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2022. Gerningsmændene til angreb i Europa har i mange tilfælde været kendt af sikkerhedsmyndighederne i forvejen for at nære sympati for militant islamisme. Der har også været tilfælde, hvor personer gennemgik en meget hurtig radikalisering eller har haft psykiske eller andre personlige problemer. Siden efteråret 2015 har en række personer indrejst med flygtningestrømmen været involveret i angreb, herunder afviste asylansøgere.
  10. ^ EU Terrorism Situation and Trend Report (TE-SAT) 2015. EU Terrorism Situation & Trend Report (Te-Sat). Europol. 2015. tr. 18–19. ISBN 978-92-95200-56-2.
  11. ^ Petter Nesser, Anne Stenersen and Emilie Oftedal. "Jihadi Terrorism in Europe: The IS-Effect". Perspectives on Terrorism, volume 10, issue 6. December 2016. pp.12–13
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan