Royal Castle | |
---|---|
Zamek Królewski | |
Cảnh từ Castle Square | |
Thông tin chung | |
Dạng | Lâu đài cư trú |
Phong cách | Mannerist - Baroque |
Quốc gia | Ba Lan |
Tọa độ | 52°14′52″B 21°00′51″Đ / 52,24778°B 21,01417°Đ |
Chủ đầu tư | Sigismund III Vasa |
Xây dựng | |
Khởi công | 1598,[1] 1971[1] |
Hoàn thành | 1619,[1] 1984[1] |
Phá dỡ | 1655–1656 (Swedish Army),[1] 10 – 13 September 1944 (German Army)[1] |
Chiều cao | 60 mét |
Thiết kế | |
Kiến trúc sư | Matteo Castelli, G. B. Trevano, Gaetano Chiaveri |
Trang web | |
Official Website |
Lâu đài Hoàng Gia ở Warsaw (tiếng Ba Lan: Zamek Królewski w Warszawie) từng là nơi ở của các triều đại vua trước đây của Ba Lan. Lâu đài tọa lạc ở Quảng trường Lâu đài, ngay lối vào Khu Phố Cổ Warsaw. Nơi làm việc của nhà vua và văn phòng hành chính của triều đình tồn tại trong lâu đài này từ thế kỷ 16 cho đến khi Ba Lan bị chia cắt vào năm 1795.
Khu phức hợp kiên cố này ban đầu được xây dựng nhằm phục vụ nhu cầu nơi ở cho các công tước Masovia. Tuy nhiên sau đó, vào đầu những năm 1600, địa điểm này được chỉ định làm trụ sở làm việc cho Nhà vua, Quốc hội (Hạ viện và Thượng viện) và Thịnh vượng chung Ba Lan - Litva, thay thế Lâu đài Wawel ở Kraków. Theo đó, các kiến trúc sư gồm Matteo Castelli và Giovanni Battista Trevano đã tu sửa công trình kiến trúc Gothic thời Trung cổ này sang trường phái kiểu cách của Ý. Cánh đông Baroque của Lâu đài được kiến trúc sư bậc thầy của Ý là Gaetano Chiaveri thiết kế và hoàn thành năm 1747.
Lâu đài Hoàng Gia là một chứng nhân lịch sử, chứng kiến nhiều sự kiện nổi bật trong lịch sử Ba Lan, nổi bật là Hiến pháp ngày 3 tháng 5 năm 1791, đây là hiến pháp quốc gia lâu đời thứ hai trên thế giới được nghị viện soạn thảo tại đây.[2] Sau khi Ba Lan bị chiếm đóng, Lâu đài được thiết kế lại theo yêu cầu của chính quyền Đế quốc Nga và sau đó là chính quyền Đức. Dưới thời Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan (1918–1939), địa điểm này là nơi đặt trụ sở của nguyên thủ quốc gia và tổng thống Ba Lan.
Bên trong Lâu đài Hoàng gia có nhiều gian phòng sang trọng, tất cả các gian phòng đều được trùng tu cẩn thận sau khi bị Chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá.
Năm 1339, Đặc phái viên của Giáo hoàng ở Warsaw[3] đã nghe một vụ kiện do Vua của Ba Lan là Casimir III Đại đế chống lại Hiệp sĩ Teuton của Đức. Ông tuyên bố họ đã chiếm giữ trái phép một phần lãnh thổ Ba Lan - các vùng Pomerania và Kuyavia. Các tài liệu trong trường hợp này là bằng chứng bằng văn bản sớm nhất chứng minh cho sự tồn tại của Warsaw. Vào thời điểm đó, một thị trấn kiên cố được bao quanh là thành lũy bằng đất và gỗ, và nằm ở vị trí của Lâu đài Hoàng gia hiện nay, đó cũng là nơi đóng quân của Trojden, Công tước của Masovia. Vào cuối thế kỷ 13, dưới thời cai trị của Công tước Conrad, khu đất bằng gỗ đắp đất này được gọi là "Trang viên nhỏ" (tiếng Latinh: Curia Minor). Công tước tiếp theo là Casimir I, quyết định xây dựng Đại tháp (tiếng Latinh: Turris Magna), có thể là một trong những tòa nhà bằng gạch đầu tiên ở Warsaw.
Giữa thế kỷ 14, Tháp Lâu đài được xây dựng và phần nền còn lại của nó lên đến tầng đầu tiên vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Trong thời kỳ Công tước Janusz I the Elder trị vì Masovia, Curia Maior (Trang viên lớn) được xây dựng từ năm 1407 đến năm 1410. Mặt tiền của nó vẫn còn đứng vững vcho đến năm 1944 nhưng bị quân Đức đánh sập, sau đó đã được xây dựng lại. Đặc điểm của dinh thự mới và kích thước của nó (47,5 m/14,5 m) đã quyết định sự thay đổi trạng thái của các tòa nhà, và kể từ năm 1414, nó hoạt động như một Trang viên của Hoàng tử.
Khi khu vực Masovia được hợp nhất vào Vương quốc Ba Lan năm 1526, cho đến lúc đó nó vẫn là Lâu đài của Công tước Masovia, đã trở thành một trong những dinh thự hoàng gia.[4] Từ năm 1548 trở đi, Nữ hoàng Bona Sforza sống trong đó cùng với các con gái của bà là Izabela, người trở thành Nữ hoàng của Hungary, Catherine, sau này trở thành Nữ hoàng Thụy Điển, và Anna Jagiellon, sau đó thành Nữ hoàng Ba Lan.[4] Năm 1556–1557 và năm 1564, Vua Ba Lan là Sigismund II Augustus, đã triệu tập nghị viện hoàng gia ở Warsaw. Họ gặp nhau trong Lâu đài. [5] Theo sau Liên minh Lublin (1569), mà Vương miện Ba Lan và Đại công quốc Lithuania - được hợp nhất với tư cách một quốc gia duy nhất, Lâu đài Warsaw thường xuyên là nơi hội họp của hai quốc gia.[4] Năm 1569–1572, Vua Sigismund II Augustus bắt đầu thay đổi lâu đài, các kiến trúc sư thời đó là Giovanni Battista di Quadro[6] và Giacopo Pario.[4]
Những thay đổi tiếp theo đối với Lâu đài được thực hiện dưới triều đại của Sigismund III, ông đã chuyển nơi ở của hoàng gia từ Cracow đến Warsaw.[7] Năm 1598–1619, Lâu đài được mở rộng và Giovanni Trevano phụ trách việc tái thiết.[7] Kế hoạch của ông có lẽ đã được kiến trúc sư người Venice là Vincenzo Scamozzi sửa đổi.[8]
Ngày 17 tháng 9 năm 1939, Lâu đài bị quân Đức pháo kích. Mái nhà và các tháp pháo bị lửa thiêu rụi (chúng được nhân viên của Lâu đài khôi phục một phần, nhưng sau đó bị quân Đức cố tình dỡ bỏ).[9] Trần của Phòng khiêu vũ bị sập, dẫn đến bức bích họa The Creation of the World trên trần nhà của Bacciarelli và các phòng khác bị hư hại nhẹ. Nhưng ngay sau khi quân Đức chiếm Warsaw, quân đội chiếm đóng tiến hành việc phá hủy lâu đài. Những đồ vật có giá trị hơn, thậm chí cả hệ thống sưởi và thông gió trung tâm, đã bị tháo dỡ và chuyển đến nước Đức.
Ngay sau khi chiến tranh kết thúc năm 1945, người dân lập tức bắt đầu giải cứu những mảnh vỡ còn sót lại của bức tường, nền móng và hầm của lâu đài cũng như những bức tường bị cháy đen của Cung điện mái đồng và Thư viện Hoàng gia khỏi bị tàn phá thêm. Năm 1949, Quốc hội Ba Lan đã thông qua dự luật xây dựng lại Lâu đài như một di tích lịch sử và văn hóa Ba Lan. Trong khi đó, các văn phòng có kiến trúc đặc biệt, dưới sự điều hành của Jan Dąbrowski, Piotr Biegański và Jan Zachwatowicz, đã lập các bản thiết kế để khôi phục lại phần khung của tòa nhà và trang trí các phòng lịch sử. Quyết định bắt đầu công việc đã bị hoãn lại nhiều lần, nhưng cuối cùng đã được đưa ra vào ngày 20 tháng 1 năm 1971.[9] Một Ủy ban Hành chính đã được thành lập. Giữa những tràng pháo tay của mọi người, người ta đã quyết định xây dựng lại lâu đài từ các khoản đóng góp tự nguyện. Cả hai ủy ban gây quỹ ở Ba Lan và nước ngoài đều được thành lập.
Đến tháng 5 năm 1975, Quỹ đã đạt được 500 triệu złoty. Cùng ngày, hơn một nghìn tác phẩm nghệ thuật có giá trị đã được nhiều cư dân Ba Lan và nước ngoài tặng cho Lâu đài.[9] Đại diện chính thức của các quốc gia khác cũng gửi gắm cho Lâu đài các tác phẩm nghệ thuật có giá trị nghệ thuật và lịch sử to lớn.
Nội thất bao gồm nhiều phòng khác nhau, tất cả đều được trùng tu cẩn thận với càng nhiều đồ trưng bày nguyên bản càng tốt sau khi bị Chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lâu đài Hoàng gia, Warszawa. |
Znaczenie Warszawy potwierdzają wystawiane tam dokumenty, jak również świadectwo wysłanników papieskich. W 1339 r. postrzegają oni tu ważny, a zarazem bezpieczny ośrodek, w którym książę często przebywa ze swym dworem i sprawuje sądy. (...) Na początku XV w. Janusz I rozpoczął w Warszawie budowę okazałego domu książęcego (nazywanego w dokumentach Curia Maior lub Curia ducalis) co tłumaczy się jako Dwór Wielki (książęcy) lub Dom Duży.
(...) w 1526 roku miała miejsce druga, dużo ważniejsza królewska wizyta w Warszawie. Do miasta, w drodze z Gdańska do Krakowa, zjechał z licznym orszakiem Zygmunt I. Objął w posiadanie Zamek i całą mazowiecką dzielnicę jako spadek po bezpotomnie zmarłych piastowskich lennikach (...) Po śmierci króla Zygmunta I w 1548 roku Bona przeniosła się na stałe na Mazowsze. (...) Włoski architekt Giovanni Battista Quadro z Lugano (twórca renesansowego ratusza poznańskiego), współpracujący początkowo z Jacopem Pario z Bisone, przekształcił średniowieczne zabudowania zamkowe (...) Rozbudowano dawną rezydencję książęcą – Dwór Wielki przekształcając ją w gmach sejmowy. (...) Od północy dobudowano posadowiony na wysokiej piwnicy Nowy Dom Królewski z zewnętrzną okrągłą klatką "wschodów kręconych". (...) Lubelski sejm 1569 roku wyznaczył Warszawę i Zamek na stałe miejsce obrad sejmu zjednoczonej Rzeczypospolitej.
Later, King Zygmunt August held meetings of the Polish parliament there. In 1569, after the Union of Poland and Lithuania, Warsaw, conveniently equidistant from Krakow and Vilno, the two capitals, became the permanent location for such meetings which took place at the Zamek. (...) The King's architect at the start of this period was Jakub Fontana (1710–1773). (...) Above the line of the Royal paintings, against a background of trophies, hang Bacciarelli's portraits of 10 Polish men of note (Copernicus, Hodkiewicz, Cromerus ... ) (...) On 3 May 1791 the Sejm enacted a new constitution in the Senate Chamber (4), the first one to be enacted in Europe and one proclaiming equality.
Król w swej nie ukończonej jeszcze, północnej rezydencji zamieszkał na jesieni w 1611 roku. Od tego czasu Warszawa – centrum parlamentarne oraz siedziba króla i centralnych urzędów. (...) Twórcami jej byli włoscy architekci: Giovanni Trevano, Giacomo Rodondo, Paolo de la Corte oraz Mateo Castello. (...) W skrzydle południowym powstał przed rokiem 1637 zespół sal z głęboką sceną i widownią wyposażonych w instrumentarium pozwalające wystawiać przedstawienia w bogatej barokowej scenografii. (...) Wiosnę 1656 roku administracja szwedzka rozpoczęła planową grabież i dewastację. Wywożono wszystkie cenne rzeczy – obrazy, rzeźby, meble także marmurowe posadzki, kominki i fontanny ogrodowe. Wnętrza zamkowe używane jako lazarety i stajnie zostały kompletnie zdewastowane. Trzy okupacje (tym ostatnia siedmiogrodzka) położyły kres wspaniałości wazowskiej rezydencji.