Lê Đại | |
---|---|
Tên chữ | Siêu Tùng |
Tên hiệu | Từ Long |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1875 |
Nơi sinh | Hà Nội |
Mất | 1951 |
Giới tính | nam |
Học vấn | |
Thầy giáo | Vũ Phạm Hàm |
Nghề nghiệp | nhà thơ |
Lê Đại (1875 - 1951[1]), tự Siêu Tùng, hiệu Từ Long; là chí sĩ yêu nước và là nhà thơ Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.
Ông sinh tại làng Thịnh Hào, Huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay là thuộc phường Hàng Bột, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội).
Thân phụ là Tú Kép Thịnh Hào[2]. Thuở nhỏ, Lê Đại từng học với Thám hoa Vũ Phạm Hàm, đỗ đầu xứ, nhưng thi Hương mấy lần đều không đỗ.
Năm 1906, ông gia nhập Duy Tân hội và phong trào Đông Du. Năm 1907, nhận lời mời của Lương Văn Can, ông tham gia sáng lập trường Đông Kinh nghĩa thục và tham gia Ban Tu thư của trường. Sau khi trường bị đóng cửa, ông vẫn tiếp tục dạy riêng một vài lớp học tại hiệu Đồng Lợi tế ở phố Hàng Bồ (Hà Nội).
Năm 1908, vì liên quan đến vụ Hà Thành đầu độc, Lê Đại cùng Vũ Hoành, Nguyễn Quyền bị nhà cầm quyền Pháp kết án chung thân đày ra Côn Đảo.
Tuy nhiên, sau 17 năm lao tù khổ sở, đến 1925 [3] Lê Đại được phóng thích. Ông trở lại Hà Nội, mở cửa hiệu chuyên viết thuê đối, trướng dưới bút hiệu Từ Long. Khoảng 2 năm sau, thì mẹ ông mất.
Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhờ Lê Đại giao thư từ với Nguyễn Hải Thần của Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội[4]. Mục đích là kêu gọi Việt Cách đoàn kết với Việt Minh, nhưng không thành công.
Năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Lê Đại cùng gia đình tản cư về Sơn Tây, đến cuối năm 1947 mới trở về Hà Nội. Ông lại ngồi viết thuê, làm thơ, và cộng tác trong Ban Văn chương của Việt Nam văn hóa hiệp hội.
Ngày 16 tháng 11 năm 1951, Lê Đại mất tại Hà Nội, thọ 76 tuổi.
Lê Đại đã biên soạn nhiều sách dùng làm tài liệu giảng dạy và tuyên truyền. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có:
Ngoài ra, ông dịch sách báo chữ Hán ra tiếng Việt, trong đó có bài dịch Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu sang thể thơ song thất lục bát là thành công nhất. Tác phẩm đã được Đông Kinh nghĩa thục in và phổ biến rộng rãi trong toàn quốc.
Năm 1939, Huỳnh Thúc Kháng chọn một số bài thơ của ông giới thiệu trong "Thi tù tùng thoại" (nhà in Tiếng Dân, 1939).
Năm 2001, Chương Thâu và Tôn Long tập hợp được khoảng 100 bài của ông và đã giới thiệu trong cuốn Lê Đại, con người và thơ văn do nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin ấn hành, 2001.
Thơ văn Lê Đại, phần lớn là thơ cảm tác, đề vịnh, tiễn tặng. Trừ một ít bài chữ Hán, số còn lại đều là tiếng Việt, và bao gồm đủ các thể loại.
Nhận xét thơ ông, GS.Nguyễn Huệ Chi có ý kiến như sau:
Nhìn chung, Lê Đại là một trong những người "giỏi quốc văn, những tay bút lưu loát, hùng hồn, chan chứa nhiệt tình cách mạng" (GS. Đặng Thai Mai)[6].