Lê Hải | |
---|---|
![]() Đại tá Lê Hải thời trẻ | |
Chức vụ | |
Phó tổng giám đốc Cụm cảng hàng không miền Nam | |
Nhiệm kỳ | 1992 – 2002 10 năm, 0 ngày |
Nhiệm kỳ | 1979 – 1979 6 năm, 0 ngày |
Sư đoàn trưởng | chức vụ thành lập |
Tiền nhiệm | Đương nhiệm |
Kế nhiệm | Mai Cương |
![]() | |
Thông tin cá nhân | |
Danh hiệu | Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Đẳng cấp Ace trong Chiến tranh Việt Nam |
Quốc tịch | ![]() |
Sinh | 29 tháng 2, 1947 Đức Phong, Mộ Đức, Quảng Ngãi, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Nơi ở | Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Tôn giáo | Không |
Đảng chính trị | ![]() 15 tháng 8, 1966 |
Binh nghiệp | |
Thuộc | ![]() |
Phục vụ | ![]() |
Năm tại ngũ | 1966-1992 |
Cấp bậc | ![]() |
Đơn vị | Sư đoàn Không quân 372 |
Tham chiến | 1961 |
Tặng thưởng | ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Lê Hải (sinh ngày 29 tháng 2 năm 1942) là một Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, sĩ quan cấp cao của Không quân Nhân dân Việt Nam, cấp bậc Đại tá. Ông nguyên là Phó tổng giám đốc Cụm cảng hàng không miền Nam, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân 372. Ông là một trong 19 phi công đạt đẳng cấp "Ách" (Ace) trong Kháng chiến chống Mỹ, với thành tích dùng MIG-17 bắn rơi 6 máy bay Mỹ.
Lê Hải sinh ngày 29 tháng 2 năm 1942, tại làng Quýt Lâm, tổng Tri Đức, phủ Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi (nay là xã Đức Phong, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi)[1]. Đến năm 19 tuổi ông thoát ly, tập kết ra Bắc, và công tác tại Trung đoàn Không quân 919[2].
Đầu năm 1965, sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh đặc biệt tại miền Nam, Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Vì lực lượng phi công tiếm kích ít ỏi của quân ta thời đó, Quân chủng Phòng không – Không quân và trường Không quân Việt Nam đã phải đào tạo gấp phi công để bổ sung cho các trung đoàn đang thiếu quân số khi cuốc chiến tranh ngày càng gay gắt[3]. Năm 1965-1966, ông là một trong 17 đồng chí được nhà trường chọn làm học viên bay tại Trung đoàn Không quân 910[4] và được cử sang Tường Vân, Trung Quốc cho khóa huấn luyện phi công tiêm kích cấp tốc[3].
Ngày 15 tháng 8 năm 1966, Lê Hải được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1966-1975, ông là phi công tiêm kích máy bay MiG-17, Trung đội trưởng, Đại đội trưởng Trung đoàn Không quân 923[5][6]. Ông đã cùng chiến đấu với đồng đội trên bầu trời miền Bắc và Bắc Trung bộ trên chiên trường quân khu 4 để bảo vệ người dân và những cứ điểm quang trọng của quân đội ta[3].
Năm 1975-1979, ông là phi công cường kích máy bay A-37, là Trung đoàn phó, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 937, Sư đoàn phó, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân 372.
Tháng 9/1969, ông là một trong những phi công tiêm kích bay tiễn biệt Bác Hồ tại lễ truy điệu của Người[3].
Năm 1985, ông được bầu làm Phó Cục trưởng Cục huấn luyện (nay là Cục Quân huấn) của Trường Quân chủng Không quân (Trường Sĩ quan không quân).
Năm 1992 ông chuyển ngành, công tác tại Hàng không Việt Nam, giữ chức vụ Phó tổng giám đốc Cụm cảng hàng không miền Nam.
Năm 2002, ông nghỉ hưu theo chế độ.
Năm 2004, ông xuất bản cuốn sách Phi Công Tiêm Kích[3].
Từ năm 1967-1972, Lê Hải đã trực tiếp bắn rơi 6 máy bay Mỹ, gồm 1 chiếc F-8, 4 chiếc F-4, 1 chiếc F-105 trên bầu trời Hà Nội, Hà Tây, Nghệ An, Hải Phòng. Ông còn yểm trợ cho đồng đội bắn rơi nhiều máy bay. Ông bắn rơi 6 máy bay Mỹ nhưng chưa một lần nhảy dù, chỉ sau Đại tá, AHLLVTND Nguyễn Văn Bảy.
Phi Công Tiêm kích là cuối sách mà Đại Tá Lê Hải chắp bút khi về đêm mà theo lời tác giả: Đây không phải là cuối hồi ký của chính ông mà là cuối sách kể về những người bạn chiến đấu của ông, những đồng chí chỉ huy, những người đã góp phần làm nên chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc Việt Nam. Cuốn sách cũng nhấn mạnh chiến thắng của ta là nhờ vào sự góp sức của toàn thể chiến sĩ và dân tộc Việt Nam: quân dân chiến sĩ bộ binh, quân dân cao xạ, an em thợ máy, anh em quân nuôi, chiến sĩ sửa đường, chiến sĩ chỉ huy, phi công tiêm kích và rất nhiều người khác, …
Cuốn sách tập trung kể về những người lính phi công tiêm kích thời bấy giờ đều rất trẻ, độ tuổi trung bình chỉ 21-23. Trong tình hình chiến tranh cấp bách, họ chỉ có đủ thời gian tham gia khóa huấn luyện cấp tốc. Khi tham gia chiến đâu sống chết với kẻ địch, họ chỉ kịp hoàn thành vài trăm giờ bay kinh nghiệm. Những chiếc MiG mà họ lái cũng là những máy bay tiêm kích lỗi thời có tốc độ hạn chế, hỏa lực chỉ có súng ở cự ly ngắn. Vậy mà đối thủ của họ là những phi công kinh nghiệm của quân đội Mỹ có tới hàng ngàn giờ bay. Máy bay Mỹ cũng là những loại tiên tiến nhất. Một trong những số đố phải kể đến F4 - là một loại máy bay tiêm kích-ném bom đa năng tầm xa siêu thanh.
Cuốn sách kể về những trận đánh cam go, phân tích chiến thuật quân ta dùng để át chế quân đội Mỹ. Có nhiều trận, vài ba chiếc MiG phải đối đầu với hàng chục máy bay địch. Tác giả có ghi lại những trận thắng lớn khiến người trong cuộc cười giòn giã. Ông cũng ghi lại những câu chuyện cảm động khi nhiều chiến sĩ đã hy sinh: chiến sĩ thợ lái dùng thân mình bảo vệ buồng lái và phi công khi giặc ném bom, tinh thần “nếu không đánh rơi sẽ đâm thẳng vào B52”, chiến sĩ phi công hy sinh để điều khiển máy bay không rơi vào trường học,… Bản thân tác giả - đại tá Lê Hải cũng nhiều lần thoát chết trong gang tất khi liều mình chiến đấu với địch trong thời tiết sương mù, địa hình hiểm trở, hay khi liều mình bảo về động đội kể cả khi đạn hết, nguyên liệu cạn kiệt
Sau mỗi trận đánh, tác giả đều giới thiệu sơ bộ về xuất thân, ngoại hình và tính cách của các chiến sĩ tham gia tác chiến. Đôi lúc, đó cũng là lời tri ân, tưởng nhớ và tiếc thương cho những liệt sĩ đã hy sinh cho tổ quốc khi tuổi đời còn quá trẻ.