Không quân Nhân dân Việt Nam | |
---|---|
Không quân Việt Nam | |
Phù hiệu của Quân chủng Phòng không – Không quân Nhân dân Việt Nam | |
Hoạt động | 24 tháng 1 năm 1959 (65 năm, 304 ngày) |
Quốc gia | Việt Nam |
Phục vụ | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Quy mô | 30.000 người 275 máy bay đang hoạt động |
Tên khác | Không quân Việt Nam |
Hành khúc | Phi đội ta xuất kích - Tường Vi |
Lễ kỷ niệm | 3 tháng 3 năm 1955 (ngày thành lập) 3 tháng 4 năm 1965 (đánh thắng trận đầu) |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh biên giới Tây Nam Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979 |
Các tư lệnh | |
Tư lệnh | |
Chính uỷ | |
Huy hiệu | |
Dấu tròn | |
Huy hiệu | |
Quân kỳ | |
Phi cơ sử dụng | |
Cường kích | Su-22 |
Tiêm kích | Su-27, Su-30 |
Tuần tra | Ka-27, Ka-32 |
Trinh sát | M-400, PZL M-28 |
Huấn luyện | Yak-52, Aero L-39 |
Không quân nhân dân Việt Nam (KQNDVN), được gọi đơn giản là Không quân Việt Nam (KQVN) hay Không quân Nhân dân, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, chiến đấu với trang bị là máy bay chuyên dụng.
"Vốn liếng" đầu tiên Không quân Việt Nam là từ 2 chiếc máy bay dân dụng De Havilland Tiger Moth và chiếc Morane-Saulnier MS-343 thuộc sở hữu riêng của Cố vấn Vĩnh Thụy tặng cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cuối năm 1945. Máy bay được tháo cánh chở bằng tàu hỏa từ Huế ra Hà Nội và chuyển về sân bay Tông (nay thuộc xã Kim Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội tạm cất giữ. Khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay tiếp tục được tháo rời, chuyển bằng thuyền lên Bình Ca, rồi lên Soi Đúng (Tuyên Quang). Trong quá trình vận chuyển, bị máy bay Pháp phát hiện và bắn phá, nên cả hai chiếc máy bay đều bị hư hỏng ít nhiều.
Ngày 9 tháng 3 năm 1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam, ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Quốc phòng, sau chuyển sang Bộ Tổng Tham mưu, do Hà Đổng, nguyên là thư ký của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu làm Trưởng ban, và một số kỹ thuật viên như Nguyễn Văn Đống (cựu binh sĩ thuộc địa Pháp tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất), Nguyễn Đức Việt (tên thật là Verner Schulze, người gốc Đức, cựu binh sĩ Lê dương Pháp), Nguyễn Tâm Trinh... Ban có nhiệm vụ nghiên cứu sử dụng máy bay cũng như các kỹ thuật chiến đấu chống lại ưu thế trên không của quân Pháp. Tuy nhiên, do không có điều kiện bảo dưỡng nên cả hai máy bay đều hư hỏng sau chuyến bay đầu tiên, được sử dụng làm buồng tập lái dưới mặt đất và mô hình học tập cho các học viên.[1][2]
Năm 1951, Ban Nghiên cứu Không quân được giải thể và hầu hết nhân sự của Ban được chuyển thuộc vào các đơn vị phòng không đang được thành lập.
Sau khi ổn định được quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khởi động lại chương trình xây dựng lực lượng không quân, với sự giúp đỡ từ các đồng minh thân cận là Liên Xô và Trung Quốc. Ngày 3 tháng 3 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu Sân bay trực thuộc Tổng Tham mưu trưởng. Ông Trần Quý Hai, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 325, được cử làm Trưởng ban. Ngày này về sau được lấy làm ngày thành lập Không quân Nhân dân Việt Nam.
Một năm sau đó, liên tục các đoàn cán bộ, chiến sĩ thuộc Ban nghiên cứu sân bay được cử đi nước ngoài học tập. Ngày 26 tháng 1 năm 1956, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận 5 máy bay đầu tiên do Trung Quốc viện trợ gồm 2 chiếc Li-2 và 3 chiếc Aero 45. Ngày 24 tháng 2 năm 1956, 2 đoàn học viên lái máy bay gồm Đoàn học máy bay tiêm kích MiG-17, gồm 50 học viên, do Phạm Dưng làm Đoàn trưởng và Đoàn học máy bay ném bom Tu-2, gồm 30 học viên, do Đào Đình Luyện làm Đoàn trưởng, học tại Trường Không quân số 2 ở Trường Xuân, Trung Quốc. Về sau, Đào Đình Luyện chuyển sang làm Đoàn trưởng Đoàn học máy bay MiG-17 và Phạm Dưng được giao nhiệm vụ phụ trách nhóm huấn luyện máy bay Li-2 và trực thăng Mi-4. Ngoài ra, trong Đoàn học Tu-2 còn có 6 học viên dẫn đường trên không (chuyên dẫn đường trên các loại máy bay và trực thăng) đầu tiên.
Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ban hành Quyết định số 319/QĐ thành lập Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu trên cơ sở tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu Sân bay và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Đại tá Đặng Tính được bổ nhiệm làm Cục trưởng, Thượng tá Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy, Trung tá Hoàng Ngọc Diêu làm Tham mưu trưởng. Ngày sau khi thành lập, ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục Không quân ra quyết định thành lập Đại đội bay gồm: Ban chỉ huy đại đội, 3 Chủ nhiệm Dẫn đường, Thông tin và Máy (kỹ thuật hàng không); 1 trung đội bay Il-14, 1 trung đội bay Li-2, 1 trung đội bay An-2 và 1 trung đội máy gồm tất cả nhân viên kỹ thuật trên không (cơ giới) và mặt đất của các loại máy bay. Trên cơ sở đó, chỉ 8 ngày sau, ngày 1 tháng 5 năm 1959, Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên, Trung đoàn 919, được thành lập tại sân bay Gia Lâm. Đến ngày 20 tháng 8, Trung đoàn Huấn luyện không quân 910 cũng được thành lập.[3]
Để chuẩn bị cho lực lượng không quân tiêm kích, từ giữa năm 1960, 6 sĩ quan [4] và một chiến sĩ Lê Thành Chơn được triệu tập về Trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn để ôn văn hóa và học tiếng Trung Quốc, chuẩn bị để đào tạo sĩ quan dẫn đường (hoa tiêu) trong lực lượng không quân. Cuối năm 1961, toàn bộ các học viên dẫn đường tốt nghiệp và về nước, cùng tham gia xây dựng cơ sở và nền tảng hệ thống dẫn đường mặt đất phục vụ cho chiến đấu sau này.
Bên cạnh đó, ngày 30 tháng 5 năm 1963, Trung đoàn không quân tiêm kích 921, mật danh là Đoàn Sao Đỏ, được thành lập tại cao nguyên Vân Quý (Trung Quốc), trên cơ sở Đoàn học viên tiêm kích MiG-17, do Trung tá Đào Đình Luyện làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đỗ Long làm Chính ủy, Thiếu tá Trần Mạnh làm Trung đoàn phó, Thiếu tá Trần Văn Thọ làm Tham mưu trưởng[5]. Đến ngày 22 tháng 10 năm 1963, Cục Không quân sáp nhập với Bộ Tư lệnh Phòng không thành Quân chủng Phòng không-Không quân. Mặc dù vậy, trên thực tế, lực lượng không quân Việt Nam khi đó chỉ có 1 trung đoàn vận tải 919 và trung đoàn 910 (trường huấn luyện).
Mãi đến ngày 3 tháng 2 năm 1964, lễ thành lập Trung đoàn không quân đầu tiên 921 mới được tổ chức tại Mông Tự, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, cùng lúc với việc tiếp nhận 33 chiếc máy bay chiến đấu kiểu MiG-17, 3 chiếc máy bay huấn luyện kiểu MiG-15UTI. Ngày 6 tháng 8 năm 1964, trung đoàn cùng với 70 phi công đào tạo ở Trung Quốc trở về nước cùng với số máy bay được viện trợ.
Tuy trở về nước với toàn bộ phi công và máy bay, nhưng lực lượng tiêm kích QĐNDVN vẫn tập trung vào việc huấn luyện, giữ tuyệt đối bí mật, tránh tham chiến. Với lực lượng không quân nhỏ bé, lạc hậu, mới thành lập của QĐNDVN, theo lẽ lạc quan nhất, thì việc giành chiến thắng trước một lực lượng không quân hùng hậu, hiện đại, nhiều kinh nghiệm của Hoa Kỳ là điều không thể. Các phi công Mỹ tin rằng đối thủ của họ sẽ là những phi công Liên Xô, hoặc chí ít cũng là phi công Trung Quốc, chứ không thể nào là những phi công Việt Nam non nớt.
Khi Chiến dịch Mũi Tên Xuyên khởi động vào năm 1964, bầu trời Việt Nam hoàn toàn do các phi công Mỹ làm chủ. Không quân Mỹ đã tung vào cuộc chiến hơn 2.000 máy bay phản lực các loại, trong khi Không quân Nhân dân Việt Nam chỉ có trong tay chưa đến 50 chiếc tiêm kích đời cũ MiG-17. Cuộc đấu giữa Không quân Nhân dân Việt Nam với Không quân Hoa Kỳ được ví như cuộc đấu giữa David và Goliath, tức là giữa chàng tí hon với gã khổng lồ.
10h35 ngày 6 tháng 8 năm 1964, một ngày sau sự kiện Mỹ dùng không quân và hải quân đánh vào Nghệ An và Quảng Ninh, 4 chiếc máy bay MiG-17 cất cánh từ sân bay Mông Tự (Trung Quốc) đã hạ cánh xuống sân bay vừa được xây dựng ở Nội Bài phía Bắc Thủ đô Hà Nội. Ngày hôm sau, 7 - 8 máy bay do thám Lockheed U-2 của Mỹ đã bay ngang qua sân bay này và sau đó Đài BBC đã loan tin, nhưng phi công Mỹ không quan tâm lắm, vì MiG-17 là loại tiêm kích đã hoàn toàn lạc hậu, chỉ có vận tốc dưới âm, không có radar cũng như tên lửa. Viên tướng J.Paul, chỉ huy tàu sân bay USS Constellation của Mỹ tuyên bố: "Cuộc chiến đấu với phi công Việt Nam chỉ là trò chơi. Các máy bay trinh sát cho phép người Mỹ nắm rõ lực lượng không quân non trẻ, một dúm máy bay cổ lỗ trú trong những bức tường bằng đất đắp không mái che".[6]
Hoa tiêu Lê Thành Chơn cho biết: "Trên thực tế, tôi không thể sử dụng các chiến thuật được huấn luyện tại Trung Quốc để chống lại Mỹ. Chương trình huấn luyện của Trung Quốc dựa vào kinh nghiệm từ Chiến tranh Triều Tiên. Tuy nhiên, thời đó thì Mỹ làm gì có công nghệ máy bay tân tiến như khi tham chiến ở Việt Nam. Những tổn thất trong giai đoạn đầu là do phi công học theo cách đánh của Trung Quốc; nhưng rồi chúng tôi bắt đầu sử dụng chiến thuật của chính mình"[7].
Với số máy bay viện trợ thêm cùng các phi công được đào tạo thêm, ngày 4 tháng 8 năm 1965, trung đoàn không quân tiêm kích thứ hai là Trung đoàn không quân tiêm kích 923, mật danh Đoàn Yên Thế, được thành lập, gồm 2 đại đội 17 phi công MiG-17, do Trung tá Nguyễn Phúc Trạch làm Trung đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Ngọc Phiếu làm Chính ủy. Không quân Việt Nam được trang bị thêm một số máy bay MiG-17F có bộ phận tăng lực.
Đến cuối năm 1965, Không quân Việt Nam có thêm một số máy bay MiG-21 do Liên Xô viện trợ, máy bay MiG-21 được lắp ráp tại hangar của sân bay Nội Bài từ giữa năm 1965. Cán bộ kỹ thuật được học chuyển loại từ khai thác MiG-17 sang khai thác MiG-21 cũng tại ngay ở sân bay này. Lớp phi công MiG-21 đầu tiên lái máy bay MiG-21 thuộc đoàn phi công học tại Crasnodar do Trung úy Phạm Thanh Ngân là đoàn trưởng và cũng ông là người dùng MiG-21 bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên. Sau này ông trở thành Tư lệnh Không Quân rồi Phó Tổng tham mưu trưởng và là Ủy viên Bộ chính trị BCH TƯ ĐCS Việt Nam. Một số phi công giỏi của Trung đoàn 921 được đưa sang Liên Xô để huấn luyện chuyển loại như Phạm Ngọc Lan, Nguyễn Ngọc Độ, Nguyễn Nhật Chiêu...
Cũng trong đầu năm 1966, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam một số máy bay J-6, một biến thể của MiG-19. Với số máy bay này, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 3 được thành lập tại Sóc Sơn với phiên hiệu Trung đoàn không quân tiêm kích 925, với Trung tá Lê Quang Trung làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Mai Đức Toại làm Trung đoàn phó. Một số cán bộ, phi công Trung đoàn 923 được huấn luyện chuyển loại MiG-19 tại căn cứ Trường Không quân số 1 ở Tế Nam (Trung Quốc). Tuy nhiên, do tình hình chiến đấu ác liệt và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc nên mãi đến tháng 10 năm 1969, trung đoàn mới về nước tham chiến, đóng căn cứ tại Yên Bái.
Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ Tư lệnh Không quân, được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z[8]. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đến nửa cuối năm 1968, trong biên chế Bộ đội phòng không - không quân đã có 5 sư đoàn phòng không và 4 trung đoàn vô tuyến kỹ thuật độc lập. Không quân Việt Nam đã có 4 trung đoàn không quân tiêm kích với 59 chiếc máy bay tiêm kích MiG-17F/PF, 12 chiếc J-6 (phiên bản Trung Quốc của MiG-19S) và 77 chiếc MiG-21F-13/ PF/PFM[9].
Ngày 1 tháng 12 năm 1971, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 4 được thành lập, với phiên hiệu là Trung đoàn không quân tiêm kích 927, căn cứ tại Thọ Xuân, vì vậy có mật danh Đoàn Lam Sơn. Thiếu tá Nguyễn Hồng Nhị, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ nhiệm bay của Trung đoàn không quân 921 được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng. Thiếu tá Trần Ưng làm Chính ủy. Thiếu tá Nguyễn Nhật Chiêu, đại úy Nguyễn Văn Nhiên và đại úy Nguyễn Đăng Kính làm trung đoàn phó. Đại úy Nguyễn Văn Tỉnh làm Tham mưu trưởng. Toàn bộ máy bay MIG-21MF (có 4 giá treo vũ khí) giao cho Trung đoàn 921, và số MIG-21PFM (có 2 giá treo) được giao cho Trung đoàn 927.
Khi các cuộc tấn công đường không do Mỹ tiến hành nổ ra, không quân nhân dân Việt Nam luôn bị áp đảo về số lượng. Ví dụ như đầu năm 1972, trên chiến trường chỉ có 71 máy bay tiêm kích của Việt Nam (40 chiếc MiG-17 và MiG-19 là máy bay thế hệ cũ, chỉ có 31 chiếc MiG-21 là tương đối hiện đại) chống lại 360 máy bay tiêm kích chiến thuật của Không quân Mỹ và 96 máy bay tiêm kích của Hải quân Mỹ, phần lớn trong đó là F-4 Phantom thuộc các biến thể hiện đại nhất.
Trước một đối phương chiếm ưu thế tuyệt đối cả về số lượng lẫn chất lượng, với hàng ngàn máy bay và hàng trăm phi công có trên 1.000 giờ bay trên nhiều loại máy bay khác nhau, Không quân Việt Nam vào lúc cao điểm cũng không có quá 100 máy bay MiG-17/19/21 với chưa đến 100 phi công với số giờ bay ít ỏi (khoảng 200 giờ mỗi người), thì những tổn thất của phía Việt Nam là rất khó chịu đựng. Họ đã cố gắng cải thiện vấn đề này bằng nhiều biện pháp tổng hợp từ tinh thần đến chiến thuật đánh nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Tuy nhiên, các phi công Mỹ cũng không phải là những kẻ bất tài.
Phía Mỹ tuyên bố trong thời gian từ 1965 đến 1973, đã có 194 phi công của họ (trong đó có 143 là phi công F-4) bắn hạ tổng cộng 196 máy bay MiG. Phía Việt Nam công nhận có 131 chiếc MiG bị mất khi không chiến và 23 chiếc khác bị mất do tai nạn, đồng thời tuyên bố đã bắn hạ khoảng 266 tới 320 máy bay các loại của đối phương. Một tài liệu khác của Hải quân Mỹ tuyên bố, trong suốt thời gian từ ngày 7 tháng 6 năm 1965 đến 12 tháng 1 năm 1973, các phi công Hải quân Mỹ đã bắn rơi 60 chiếc MiG.
Riêng ngày 2 tháng 1 năm 1967, chiến dịch Bolo nhằm gài bẫy các MiG Việt Nam được thực hiện. Trong ngày này, có 6 MiG cất cánh, thì 5 chiếc bị bắn rơi tại chỗ, 5 phi công phải nhảy dù (trong đó có ba người về sau trở thành hạng "Ách" là Nguyễn Đăng Kỉnh, Nguyễn Văn Cốc, Nguyễn Hồng Nhị) nhưng may mắn không có ai bị thương, phía Mỹ không mất máy bay nào. Trong hai ngày sau, riêng đoàn 921 mất thêm 3 chiếc nữa. Trong vòng 3 ngày, Việt Nam tổn thất 9 máy bay trong tổng số 16 máy bay sẵn sàng chiến đấu, đây là tỷ lệ mất mát rất lớn khi mà số lượng máy bay của Việt Nam khi đó chỉ có vài chục chiếc, khiến cho lực lượng không quân Việt Nam gần như tê liệt trong suốt nhiều ngày[10]
Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam đôi khi còn bị tổn thất bởi chính những người đồng đội Phòng không của mình. Trong không chiến quần vòng giữa đông đảo các máy bay của đối phương, những chiếc MiG cũng có thể bị trúng đạn lạc trong lưới đạn của pháo phòng không Việt Nam. Ngoài ra, do tưởng lầm là máy bay địch, tên lửa phòng không đã bắn nhầm trong một số trường hợp đáng tiếc. Ngoài trường hợp 3 máy bay MiG-17 bị rơi, được cho là bị pháo cao xạ bắn nhầm ngày 4 tháng 4 năm 1965, tài liệu phía Việt Nam ghi nhận hai trường hợp MiG-17 và MiG-21 bị bắn nhầm bởi tên lửa SAM-2 của Việt Nam làm 1 phi công chết, 1 bị thương nặng.[11] Trong thời gian đầu Chiến dịch Sấm Rền, sự thiếu kinh nghiệm cũng làm phía Việt Nam mất một vài phi công trẻ và máy bay do tai nạn.
Tuy nhiên, bất chấp thời gian huấn luyện, trang bị và số lượng kém hơn, các phi công Việt Nam đã thể hiện sự dũng cảm và sáng tạo của họ trong cả hai phương diện chiến thuật và kỹ thuật, làm kinh ngạc đối phương.
Ví dụ, trong ngày 10 tháng 5 năm 1972, đã diễn ra cuộc không chiến dữ dội nhất trong năm 1972 với 15 trận không chiến. Các phi công Mỹ trong đội bay đã được đào tạo đặc biệt (chương trình huấn luyện TopGun) họ và đã bắn hạ 3 chiếc MiG-17, 1 chiếc MiG-19 và 2 chiếc MiG-21, đổi lại có 5 chiếc F-4 Phantom của Mỹ bị hạ (Việt Nam tuyên bố 2 chiếc F-4 khác cũng đã bị hạ nhưng Mỹ không công nhận). Phía Việt Nam cũng công nhận trong vòng 15 ngày (từ 26/4 tới 10/5), họ đã mất 9 phi công giỏi. Sau khi họp bàn rút kinh nghiệm, các phi công Việt Nam dùng chiến thuật mới để phản công. Ngày 11 và 13/5, phi công Việt Nam hạ được 4 F-4 mà không bị tổn thất. Ngày 18/5, các phi công Việt Nam xuất kích 26 lần và tiến hành 8 trận không chiến, bắn rơi 4 chiếc F-4 Phantom trong khi Việt Nam không bị tổn thất.[12].
Trong tháng 6/1972, các Trung đoàn không quân tiêm kích 921 và 923 của Việt Nam đã bắn rơi 16 máy bay đối phương và chịu tổn thất 4 chiếc. Ngày 27 tháng 6, Không quân Mỹ tổ chức một trận tập kích lớn vào Hà Nội với 24 máy bay cường kích và 20 máy bay tiêm kích F-4 yểm hộ. 5 chiếc MiG-21MF của Việt Nam đã hạ 4 chiếc F-4E của các Liên đội không quân chiến thuật số 366 và 423 của Không quân Hoa Kỳ tại vùng trời Tây Bắc Việt Nam (các F-4 bị rơi có số hiệu 68-0314, 67-0248, 69-7271, 69-7296); bắn bị thương 1 chiếc F-4E (số hiệu 67-0243), phía Việt Nam không bị tổn thất.[13]
Nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh Vladimir Ilyin đã có bài viết tổng kết về cuộc đối đầu giữa Không quân Nhân dân Việt Nam và Không quân Mỹ trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, theo đó:
Trong suốt các cuộc không chiến giữa không quân Việt Nam với quân đội Mỹ, phía Việt Nam có 16 phi công đạt đẳng cấp "Ách" (tức đã bắn hạ được từ 5 máy bay đối phương trở lên), gồm 14 phi công MiG-21 và 2 phi công lái MiG-17. Trong đó người cao nhất là phi công MiG-21 Nguyễn Văn Cốc đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ. Một phi công huyền thoại khác là Nguyễn Văn Bảy, còn gọi là "Bảy A", phi công MiG-17, đã bắn hạ 7 máy bay Mỹ (cao nhất trong các phi công lái MiG-17). Trong khi đó, chỉ có 3 nhóm phi công Mỹ đạt đẳng cấp "Ách" (đều là phi công lái F-4) và người cao nhất là Hoa tiêu, Đại úy Không quân Chuck E. DeBellevue đã bắn hạ được 6 máy bay. Hai tổ lái còn lại là tổ lái của Ritchie Richard (phi công) và Feinstein Jeffrey S. (hoa tiêu) của Không quân và tổ lái Cunningham Randolph (phi công) và Driscoll William (hoa tiêu) của Hải quân, mỗi tổ lái hạ 5 chiếc.
Một phi công khác cũng cùng tên Nguyễn Văn Bảy, thường được gọi là "Bảy B", từng chỉ huy một biên đội 2 chiếc MiG-17 ngày 14 tháng 4 năm 1972 cất cánh từ sân bay Khe Gát, Quảng Bình ném trúng 2 quả bom 250 kg vào tàu khu trục Mỹ Highbee. Đây cũng là lần đầu tiên không quân của một quốc gia khác tiến công hạm đội Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đặc biệt cho tới năm 2004, chỉ có Không quân Nhân dân Việt Nam là dám đối đầu và bắn rơi máy bay B-52, một loại siêu pháo đài bay hiện đại của không quân Hoa Kỳ bấy giờ. Trong Chiến tranh Việt Nam, có ba siêu pháo đài bay loại này được cho là do Không quân Nhân dân Việt Nam bắn rơi trong đêm 27/12/1972.
Các phi công Mỹ còn lưu truyền về một phi công MiG-17 được họ gọi bằng biệt hiệu Đại tá Toon (hay Tomb) với số lần bắn hạ đối phương là 13 lần, về sau bị một "Ách" của Hải quân Hoa Kỳ là Đại úy Randy "Duke" Cunningham bắn rơi. Một số người cho rằng đây là phi công Đinh Tôn, tuy nhiên Đinh Tôn lại lái chiếc MiG-21 và không được xếp vào nhóm "Ách". Trên thực tế, phía Việt Nam không đưa các phi công có cấp bậc Thiếu tá trở lên để tham gia không chiến. Sau này, Đại tá Toon được xác nhận là một nhân vật tưởng tượng do các phi công Mỹ tạo ra và thường xuyên được họ đưa ra làm đề tài chuyện phiếm. Như là thiện chí của các phi công Mỹ, Đại tá Toon là một sự tổng hợp của các phi công giỏi của Việt Nam, giống như những "nghệ sĩ sôlô" ném bom đơn độc ban đêm trong Chiến tranh thế giới thứ hai được gọi là "máy giặt Charlie" vậy.
Trong vòng hơn 7 năm (từ trận không chiến đầu tiên vào năm 1965 đến đầu năm 1973), Không quân Nhân dân Việt Nam đã xuất kích 6.960 lần, với khoảng 360 trận không chiến, 587 lần nổ súng, tuyên bố bắn rơi 320 máy bay các loại của địch. Trong toàn cuộc chiến, Không quân Việt Nam đã bị mất 159 máy bay và 2 trực thăng các loại, bao gồm 75 chiếc MiG-17, 5 chiếc MiG-19, 65 chiếc MiG-21[20], 5 chiếc An-2, 5 chiếc Il-14, 1 chiếc MiG-15UTI, 1 chiếc Il-28, 1 chiếc L-29, 1 chiếc Lisunov Li-2, 2 trực thăng Mi-4 (tính cả máy bay bị mất trong không chiến và máy bay bị mất do tai nạn)[21] Không quân Việt Nam có 163 phi công hy sinh (bao gồm 74 phi công MiG hy sinh trong không chiến, số còn lại hy sinh trong những tình huống ngoài không chiến).
Theo một thống kê khác thì tổng cộng trong chiến tranh, Không quân Nhân dân Việt Nam tuyên bố đã bắn hạ 266 máy bay các loại của Mĩ[22][23], trong khi tổn thất trong chiến đấu là 131 máy bay MiG các loại và 23 chiếc MiG khác bị mất do tai nạn, đạt tỉ lệ tiêu diệt 1 đổi 2. Một nguồn khác ghi nhận rằng đã có 56 phi công Việt Nam từng bắn rơi máy bay Mỹ, 2 người trong số đó hạ 4 chiếc và 16 người hạ từ 5 chiếc trở lên. Đây là một kì công nhất là với trang bị máy bay cũ kĩ và số giờ bay thấp của các phi công[19].
Có thể tham khảo thành tích của các phi công tại đây
Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam cũng có một số trường hợp đặc biệt hi hữu. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, Hồ Duy Hùng, vốn là một Thiếu úy phi công trực thăng vũ trang của Việt Nam Cộng hòa bị sa thải, thực chất là một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay trực thăng vũ trang UH-1A tại Đà Lạt và hạ cánh tại Dầu Tiếng, thuộc vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Đúng 17 tháng sau, ngày 8 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thành Trung, cũng là một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay phản lực chiến đấu F-5E, ném bom vào dinh Độc Lập và sau đó hạ cánh tại sân bay dã chiến tại Phước Long. Không lâu sau đó, đúng 20 ngày sau, vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, cũng chính Nguyễn Thành Trung dẫn đầu một phi đội gồm 5 chiếc khu trục ném bom A-37 chiến lợi phẩm, đã ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, thực hiện trận đánh cuối cùng của Không quân Việt Nam trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Phi đội gồm Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng, Từ Đễ (3 phi công lái MiG-17 vừa mới học chuyển loại) và Trần Văn On (cựu phi công Không lực Việt Nam Cộng hòa tình nguyện tham gia chiến đấu).
Khu vực đỗ máy bay của không lực Sài Gòn đã bị trúng 6 quả bom làm ít nhất 3 chiếc AC – 119 và một số chiếc C–47 bị phá hủy hoàn toàn. Hai quả bom khác rơi đúng điểm giữa tòa nhà Phòng tác chiến và tháp chỉ huy.
Trong Chiến dịch Mùa xuân năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam tịch thu được 877 máy bay quân sự các loại, trong số đó có 41 chiếc F-5 Freedom Fighter và 95 chiếc A-37[24]. Trong số này, 250 chiếc còn rất tốt, có thể dùng để chiến đấu được ngay, số còn lại được để trong kho bảo quản hoặc chờ sửa chữa. Số máy bay này tiếp tục phục vụ rộng rãi trong chiến tranh biên giới Tây Nam chống lại các lượng lượng Khmer Đỏ. Đến thập niên 2000, chỉ còn một số ít máy bay tịch thu của Mỹ là vẫn hoạt động, số còn lại đã loại khỏi biên chế do đã cũ hoặc không có phụ tùng sửa chữa.
Ngày 21 tháng 5 năm 1975, Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập 2 trung đoàn trực thăng 917 và 918, và 2 trung đoàn máy bay chiến đấu 935 và 937. Các trung đoàn này được trang bị các máy bay chiến lợi phẩm của Không lực Việt Nam Cộng hòa và tham chiến ở chiến trường biên giới Tây Nam.
Bên cạnh đó, trước nguy cơ xung đột với quốc gia láng giềng kiêm đồng minh cũ là Trung Quốc, Việt Nam tìm cách tăng cường hiện đại hóa lực lượng quân sự, kể cả không quân, với sự giúp đỡ của cường quốc Liên Xô. Ngày 16 tháng 5 năm 1977, Quân chủng Không quân được thành lập, bao gồm các binh chủng Không quân tiêm kích, Không quân tiêm kích-bom, Không quân vận tải, Không quân trinh sát,... theo mô hình của Liên Xô. Năm 1979, Việt Nam được Liên Xô viện trợ một số máy bay tiêm kích-bom khá hiện đại Su-22M. Số máy bay này được chuyển giao cho trung đoàn 923.
Ngày 25 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn Không quân tiêm kích 929 được thành lập, với nòng cốt các bộ, phi công từ các trung đoàn 935, 937 chuyển sang.
Thời kỳ này, trang bị của KQNDVN chủ yếu là mua với giá ưu đãi từ Liên Xô và các chiến lợi phẩm được trao đổi, nhằm thay thế dần số MiG-17 và MiG-19 đã quá cũ. Mô hình tổ chức quân chủng không quân riêng biệt phỏng theo mô hình tổ chức của Không quân Liên Xô, vốn có lãnh thổ rộng lớn và trang bị quân sự hùng hậu, không phù hợp với đặc thù Việt Nam, có lãnh thổ nhỏ hẹp và thiếu trang bị. Từ giữa thập niên 1980, do sự sụp đổ của khối Đông Âu, những ưu đãi về mua sắm trang thiết bị không còn, cộng với các máy bay chiến lợi phẩm không có phụ tùng thay thế do bị cấm vận, rất nhiều máy bay bị thải loại hoặc phải cất kho do không có phụ tùng thay thế. Không quân Việt Nam cố gắng duy trì hoạt động bằng cách mua lại với giá rẻ các máy bay MiG-21 hoặc Su-22 đã qua sử dụng từ các nước Đông Âu đang chuyển sang gia nhập khối NATO.
Trong các năm từ 1996 đến 1998, Việt Nam đã đặt hàng Nga nâng cấp 32 chiếc máy bay tiêm kích bom Su-22M4 một người lái và 2 chiếc máy bay huấn luyện 2 người lái Su-22UM3. Tiếp tục những năm sau, Việt Nam mua lại nhiều máy bay Su-22M4/UM3 của Ba Lan và Cộng hòa Séc.
Giữa thập niên 1990, trung đoàn 937 được tiếp nhận những máy bay Su-27SK/UB đầu tiên của Việt Nam. Đây là thế hệ máy bay hiện đại nhất mà Việt Nam có vào lúc đó, được mua sắm với giá thị trường.[cần dẫn nguồn] Lần lượt trong những năm tiếp theo, do thiếu kinh phí, Không quân Việt Nam đành tạm hài lòng với khoản nâng cấp, kéo dài tuổi thọ của các máy bay MiG-21 và Su-22, dù số giờ bay huấn luyện càng lúc càng giảm cũng như số tai nạn do thiết bị cũ tăng lên. Dù vậy, họ vẫn tiếp tục mua sắm các máy bay hiện đại Su-27/30 hiện đại hơn, dù chỉ với số lượng ít và nhỏ giọt.
Kể từ tháng 3 năm 1999, lực lượng không quân lại sáp nhập với lực lượng phòng không lại thành Quân chủng Phòng không - Không quân để tinh giản và gọn nhẹ trong bộ máy quản lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Cuối năm 1999, cơ quan quản lý vũ khí trang bị Rosoooruzheniye của Nga đã tiến hành đàm phán để nâng cấp những chiếc Su-27 và Su-30 hiện có của Việt Nam để chúng có thể mang được tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn R-77 (AA-12), tên lửa không đối hạm Kh-31 (AS-17) và các loại tên lửa không đối đất Vympel Kh-27 (AS-14) và Kh-59M (AS-18).
Trong những năm 2010, đứng trước sức ép của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh việc trang bị cho lực lượng không quân của mình nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo. Những hợp đồng trang bị mới nhất cho thấy việc gia tăng trang bị những mẫu máy bay chiến đấu hiện đại như Su-30MK2 hoặc những quan tâm đến mẫu tiêm kích thế hệ mới nhất như MiG-35, Su-35 hay thậm chí có thể là cả vũ khí của Pháp và Hoa Kỳ, cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc tăng cường sức mạnh không quân của mình.[25][26]
Hầu hết các máy bay của Không quân nhân dân Việt Nam được cung cấp bởi Liên Xô. Một phần do Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa bỏ lại sau Chiến tranh Việt Nam. Một số lớn máy bay này đến nay đã không còn sử dụng được nữa.
Ảnh | Máy bay | Nguồn gốc | Loại | Phiên bản | số lượng | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|---|
Máy bay tiêm kích | ||||||
Sukhoi Su-27 | Nga | Máy bay tiêm kích | Su-27SK/UBK | 11 | Ngày 1 tháng 7 năm 2007, chiếc Su-27SK 6007 bị rơi trong khi cuộc huấn luyện tại Cam Ranh. | |
Sukhoi Su-30 | Máy bay tiêm kích đa chức năng | Su-30MK2 | 35 | Chiếc Su-30MK2 số hiệu 8585 đã rơi ngày 14/6/2016 khi đang bay huấn luyện nhiệm vụ chặn kích trên biển - 1 phi công thiệt mạng, 1 phi công an toàn | ||
Máy bay tiêm kích bom | ||||||
Sukhoi Su-22 | Liên Xô | Máy bay tấn công mặt đất | Su-22 | 33 | Đã được hiện đại hóa lên chuẩn M3/M4 | |
Máy bay huấn luyện | ||||||
Yakovlev Yak-130 | Nga | Máy bay huấn luyện | Yak-130 | 11 | 1 chiếc bị rơi,2 phi công đều sống sót | |
Aero L-39 Albatros | Tiệp Khắc | Máy bay phản lực | L-39C,L-39NG | 26(+12) | Ngày 26 tháng 8 năm 2016, chiếc L-39 số hiệu 8705 đã bị rơi tại Đông Hòa, Phú Yên khi đang bay huấn luyện đơn. Phi công học viên Phạm Đức Trung hy sinh sau khi cố gắng điều khiển máy bay tránh Quốc lộ 1 và đường dây điện cao thế.[27] Đang dặt hàng 12 máy bay L- | |
Yakovlev Yak-52 | Liên Xô | Máy bay cánh quạt | Yak-52 | 36 [1] | ||
Beechcraft T-6 Texan II | Hoa Kỳ | Máy bay cánh quạt (huấn luyện) | T-6 | 5 | Được giao vào ngày 18/11/2024 7 chiếc còn lại sẽ được giao vào 2027 | |
Máy bay vận tải | ||||||
PZL M-28 | Ba Lan | Máy bay vận tải | PZL M-28BR1 Bryza | 1 | Phiên bản tuần tra trinh sát và mở rộng với tầm bay cao. Một chiếc bị rơi năm 2005. | |
Airbus C295 | Tây Ban Nha | Máy bay vận tải | C-295M | 3 | Chiếc cuối cùng đã được Airbus chuyển giao tới Việt Nam vào đầu tháng 5 năm 2015.[28] | |
CASA C-212 Aviocar | Tây Ban Nha Indonesia |
Máy bay vận tải | NC212i | 3 | ||
Antonov An-2 | Liên Xô Nga |
Máy bay vận tải | An-2 | Không xác định | ||
Trực thăng | ||||||
Ka-28 | Liên Xô | Trực thăng chống ngầm | Ka-28 | 8 | ||
Mi-8 Hip | Trực thăng đa chức năng | Mi-8T
Mi-8P Mi-8MT |
69 | Một vài máy bay có cấu hình được vũ trang với rocket. | ||
Mi-17 Hip-H | Mi-17-1V
Mi-171 (SAR) Mi-171E |
45 | ||||
Eurocopter Ecureuil | Pháp | Trực thăng đa chức năng hạng nhẹ | AS-350 B3 | 5 | Chủ yếu phục vụ huấn luyện phi công trực thăng. | |
Aérospatiale Super Puma | Trực thăng dân dụng | AS-332L2 | 6 | |||
Aérospatiale Puma | SA-330J | 10 | ||||
Eurocopter EC130 | EC-130B4 | 1 | ||||
Eurocopter EC155 | EC-155B1 | 2 | ||||
Máy bay trinh sát do thám không người lái | ||||||
Tập tin:UAV VT patrol.jpg | VT-Patrol | Việt Nam | Máy bay trinh sát không người lái tầm gần. | VT Patrol | Chưa rõ | |
Orbiter 2 | Israel | Máy bay trinh sát không người lái tầm gần. | Orbiter 2 |
Ảnh | Tên lửa | Nguồn gốc | Loại tên lửa | Phiên bản | Trang bị | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|---|
Kh-25 | Liên Xô | Tên lửa không đối đất, chống hạm, chống bức xạ[29] | Kh-25ML Kh-25MP/Kh-25MPU Kh-25MR |
Su-22M4 | ||
Kh-28 | Tên lửa chống bức xạ[29] | Kh-28E | ||||
Kh-29 | Tên lửa không đối đất, chống hạm, chống bức xạ[29] | Kh-29T Kh-29TE |
Su-27SK | |||
Kh-31 | Tên lửa diệt hạm, chống bức xạ[29] | Kh-31A
Kh-31P | ||||
Kh-59 | Tên lửa không đối đất, không đối hải | Kh-59MK | Su-30MK2V | |||
Vympel K-13 | Tên lửa không đối không tầm ngắn | R-3SM | MiG-21bis/UM/bison | |||
Vympel R-27 | Tên lửa không đối không tầm trung | R-27R R-27ET R-27T |
Su-27SK | |||
Molniya R-60 | Tên lửa không đối không tầm ngắn | R-60M | MiG-21bis/UM/bison Su-22M4/M3 | |||
Vympel R-73 | Tên lửa không đối không tầm ngắn | R-73 | Su-27SK | |||
Vympel R-77 | Tên lửa không đối không tầm trung và tầm xa | R-77 |
Năm 1996, Không quân nhân dân Việt Nam đã đàm phán mua 2 phi đội máy bay Dassault Mirage 2000 từ Pháp nhưng bị ngăn cản vì lệnh cấm vận quân sự của Hoa Kỳ với Việt Nam.
Năm 2009, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã rút lệnh cấm xuất khẩu trực thăng quân sự cho Việt Nam qua sự vận động lâu dài của tập đoàn Executive Decision Export Services Group. Thay thế vào đó các trực thăng Hoa Kỳ xuất khẩu sang Việt Nam phải được thiết kế cho các công tác chuyên vận hay cứu hộ (SAR).
Việt Nam có thể sẽ mua MIG-29 để thay thế cho SU-22, con số ước lượng vào khoảng 60 chiếc.
Máy bay | Nguồn gốc | Loại | Số lượng |
---|---|---|---|
Máy bay tiêm kích | |||
Shenyang J-5 | Trung Quốc | 10 | |
Shenyang J-6 | 30 | ||
Mikoyan-Gurevich MiG-15 | Liên Xô | 50 | |
Mikoyan-Gurevich MiG-17 | 77 | ||
Mikoyan-Gurevich MiG-19 | 45 | ||
Mikoyan-Gurevich MiG-21 | 25 Chiếc Cuối Cùng Đã Loại Biên Năm 2015 | ||
Northrop F-5 | Hoa Kỳ | 18 chiếc loại này đã được bán thanh lý | |
Máy bay cường kích | |||
Douglas A-1 Skyraider | Hoa Kỳ | 24 | |
Cessna A-37 Dragonfly | 15 chiếc loại này đã dược bán thanh lý | ||
Máy bay vận tải | |||
Lisunov Li-2 | Liên Xô | Máy bay vận tải | 24 |
Ilyushin Il-14 | 45 | ||
Ilyushin Il-18 | 4 | ||
An-24 | 7 | ||
Yakovlev Yak-40 | Máy bay vận tải chuyên cơ | 15 | |
Fairchild C-119 Flying Boxcar | Hoa Kỳ | Máy bay vận tải hạng trung | 4 |
Lockheed C-130 Hercules | 32 (số liệu năm 1972) | ||
Fairchird C-123 Provider | Máy bay vận tải | 5 | |
Douglas C-47 Skytrain | Máy bay vận tải và pháo kích | 13 | |
De Havilland Canada DHC-4 Caribou | Canada | Máy bay vận tải | 11 |
Máy bay trinh sát | |||
Antonov An-30 | Liên Xô | Máy bay trinh sát | 8 |
Cessna O-1 | Hoa Kỳ | Chỉ huy chiến trường / trinh sát chụp ảnh | 17 |
Máy bay oanh tạc | |||
Ilyushin Il-28 | Liên Xô | Máy bay oanh tạc hạng trung | 16 |
Máy bay huấn luyện | |||
Yakovlev Yak-18 | Liên Xô | Máy bay huấn luyện cơ bản | |
Aero Ae-45 | Tiệp Khắc | Máy bay huấn luyện | 3 |
Zlin Z-226 Trener | Máy bay huấn luyện cơ bản | 8 | |
Aero L-29 Delfin | Máy bay phản lực huấn luyện | 12 | |
North American T-28 Trojan | Hoa Kỳ | Huấn luyện cơ bản / tấn công ban ngày | 14 |
Cessna T-37 | Máy bay phản lực dùng cho huấn luyện | 22 | |
Thủy phi cơ | |||
Beriev Be-12 | Liên Xô | Thủy phi cơ oanh tạc / chống ngầm / tuần tra biển | 4 |
Trực thăng | |||
Mil Mi-4 | Liên Xô | Trực thăng đa nhiệm hạng nhẹ | 10 |
Mil Mi-6 | Trực thăng vận tải hạng nặng | 15 | |
Mil Mi-24 | Trực thăng chiến đấu | 24 | |
CH-47 Chinook | Hoa Kỳ | Trực thăng vận tải hạng nặng | 23 |
Bell UH1 Iroquois | Máy bay trực thăng | trên dưới 3.000 chiếc |
Một vài trực thăng loại UH-1 Huey, máy bay chiến đấu F-5, A-37 đã được bán đấu giá vào năm 1998 và hiện đang thuộc quyền sở hữu của một vài doanh nghiệp và cá nhân thuộc Hoa Kỳ, Úc, New Zealand và Châu Âu.
Tổ chức Không quân Nhân dân Việt Nam, cao nhất là Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không Không quân Nhân dân, dưới là các Sư đoàn Không quân phụ trách theo địa bàn không phận. Biên chế cơ sở tác chiến là các Trung đoàn Không quân. Trong mỗi trung đoàn gồm có các đơn vị hỗ trợ với biên chế tiểu đoàn (tiểu đoàn hậu cần, tiểu đoàn kỹ thuật...) và các nhóm phi công chiến đấu với biên chế phi đội. Khi tác chiến phối hợp trên không, các phi công thường triển khai đội hình biên đội, tùy theo như cầu tác chiến, phổ biến nhất là biên đội 2 máy bay, số rất hiếm là 3 hoặc 4 máy bay.
Không quân | Tên lửa phòng không | Pháo phòng không | Lính dù | Radar cảnh giới |
---|---|---|---|---|
Học viện Phòng không - Không quân ở Sơn Tây và Trường Sĩ quan không quân ở Nha Trang là hai nơi chuyên đào tạo các sĩ quan về kỹ thuật hàng không và phi công cho không quân hiện nay.
Hầu hết căn cứ không quân và sân bay quân sự ở Việt Nam được xây dựng ban đầu bởi người Pháp hoặc người Nhật. Trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam, nhiều sân bay được xây dựng mới hoặc nâng cấp bởi Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam hoặc được xây dựng dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc tại miền Bắc. Sau năm 1975, không có sân bay quân sự nào được xây mới. Một số được cải tạo nâng cấp để phục vụ cho nhu cầu dân sự.
Hiện tại, trừ một số căn cứ không quân thuần túy, toàn bộ các sân bay ở Việt Nam đều được sử dụng hỗn hợp dân sự và quân sự, hoặc được xem như một sân bay quân sự dự phòng.
Chiến công đầu tiên của Không quân Nhân dân Việt Nam do Trung đoàn không quân vận tải 919 lập. Đêm 15 tháng 2 năm 1965, chiếc máy bay T28 (thu được do một phi công phản chiến hạ cánh xuống sân bay Bạch Mai) do Nguyễn Văn Ba làm lái chính, Lê Tiến Phước làm lái phụ bắn rơi tại chỗ một chiếc máy bay C123 của Mỹ gần biên giới Việt - Lào. Nguyễn Văn Ba đã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào tháng 8 năm 1995.
Trận không chiến đầu tiên của MiG-17 là vào ngày 3 tháng 4 năm 1965, tại trận đánh bảo vệ cầu Đò Lèn, Thanh Hóa với phi đội 4 chiếc MiG-17 đã tấn công vào đội hình máy bay A4D và F8 mang bom của Hải quân Hoa Kỳ. Hai chiếc F-8 Crusaders đã bị bắn trúng nhưng không rơi tại chỗ mà cố chạy được ra biển. Ba chiếc MiG-17 về hạ cánh an toàn, một chiếc của phi đội trưởng Phạm Ngọc Lan hết dầu phải hạ cánh xuống bãi sông Đuống.[31]
Trận đánh tiếp theo diễn ra ngay hôm sau với 3 phi đội cất cánh, trong đó có 2 phi đội nghi binh và bảo vệ, một phi đội công kích thẳng vào tốp F-105 mang bom tấn công cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa do Thiếu tá Frank Bennett làm dẫn đầu. Phía Mỹ có 2 chiếc F-105 bị MiG-17 bắn trúng. Chiếc do Đại úy James Magnusson lái rơi trên đường thoát ra biển, chiếc do Thiếu tá Frank Bennett rơi khi hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Đà Nẵng. Cả hai phi công đều chết. Phía Không quân Việt Nam mất 3 chiếc MiG. Một chiếc do Lê Minh Huân lái rơi gần bờ biển Sầm Sơn, gần xác chiếc F-105 do chính anh bắn hạ. Hai chiếc còn lại, do Phạm Giấy và Trần Nguyên Năm lái, bị rơi ở gần khu vực cầu Hàm Rồng. Cả ba chiếc đều không có ghi nhận nào bị bắn rơi từ phía Mỹ, có khả năng bị chính súng phòng không của Việt Nam bắn rơi. Một chiếc duy nhất còn lại, do phi đội trưởng Trần Hanh lái và cũng là chiếc đã bắn hạ Thiếu tá Frank Bennett, hết dầu và hỏng la bàn nên phải hạ cánh xuống lòng một con suối cạn thuộc bản Ké Tằm, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.[32]
Chiến công đầu tiên của MiG-21 là bắn rơi máy bay do thám không người lái Ryan Firebee của phi công Nguyễn Hồng Nhị vào ngày 4 tháng 3 năm 1966.
Không quân Việt Nam ghi nhận có 3 trường hợp MiG-21 tấn công pháo đài bay B-52 và họ tự hào là lực lượng không quân duy nhất trên thế giới tấn công trực tiếp được loại máy bay này thời bấy giờ. Trường hợp đầu tiên do phi công Vũ Đình Rạng bắn trúng B-52 ngày 20 tháng 11 năm 1971. Chiếc B-52 bị hư hỏng nặng, phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom-Phanom, Thái Lan. Trường hợp thứ hai được phía Việt Nam ghi nhận là do Phạm Tuân bắn rơi tại chỗ vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Trường hợp thứ ba diễn ra ngay vào ngày hôm sau, 28 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận do phi công Vũ Xuân Thiều thực hiện. Một số bài báo viết rằng sau khi đã phóng đi cả hai quả tên lửa mà không hạ được B-52, Vũ Xuân Thiều đã lao máy bay của mình vào hạ B-52 theo lối đánh cảm tử. Tuy nhiên, nhiều tài liệu lịch sử của Phòng không và Không quân nhân dân Việt Nam xác định do bắn B-52 ở cự ly quá gần nên máy bay của Vũ Xuân Thiều bị các mảnh nổ của B-52 văng ra, bốc cháy và rơi cách chiếc B-52 bị anh hạ khoảng 1 km tại Phù Yên, Sơn La.[33][34][35] Về phía Mỹ, các tài liệu không thừa nhận có bất cứ chiếc B-52 nào bị bắn rơi trong đêm 28 tháng 12. Ngược lại, họ cho rằng Vũ Xuân Thiều đã bị bắn rơi trước khi kịp tiếp cận B-52, bởi chiếc F-4D do Thiếu tá Harry McKee và Đại úy John Dubler điều khiển.[36]
Trận không chiến cuối cùng giữa Không quân Việt Nam và Không quân Mỹ diễn ra vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Phía Việt Nam công bố, chiếc máy bay MiG-21 do phi công Trần Việt điều khiển đã bắn hạ 3 chiếc F-4. Phía Mỹ chỉ công nhận rơi 2 chiếc.
Phi công "Ách" là thuật ngữ thông dụng trong hàng không quân sự dùng để chỉ các phi công đã bắn hạ từ 5 máy bay đối phương trở lên. Trong hàng ngũ phi công Không quân Nhân dân Việt Nam gồm có:
Ngày 6 tháng 7 năm 1998, máy bay Su-27SK mang số hiệu 6007 do Thiếu tá phi công Hoàng Bá Tâm, Biên đội trưởng Phi đội 3 điều khiển trong nhiệm vụ bay biển xa đã mất liên lạc và mất tích trên vùng biển cách đất liền khoảng 200km. Đây là tai nạn máy bay bí ẩn nhất Không quân Việt Nam.
|website=
(trợ giúp); |url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)