Lê Quảng Ba | |
---|---|
Vị tướng người Tày đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam | |
Chức vụ | |
Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Chính phủ | |
Nhiệm kỳ | 1960 – 28 tháng 2 năm 1977 |
Tiền nhiệm | Chu Văn Tấn |
Kế nhiệm | Vũ Lập |
Tư lệnh Quân khu Việt Bắc | |
Nhiệm kỳ | 6/1957 – |
Chính ủy, Bí thư | Chu Văn Tấn |
Phó Tư lệnh | Thanh Phong |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 21 tháng 4 năm 1914 Hà Quảng, Bắc Kỳ, Cao Bằng, Liên bang Đông Dương |
Mất | 19 tháng 3, 1988 Hà Nội, Việt Nam | (73 tuổi)
Binh nghiệp | |
Thuộc | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Phục vụ | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Năm tại ngũ | 1941-1960 |
Cấp bậc | |
Chỉ huy | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Tham chiến | Chiến dịch Điện Biên Phủ |
Tặng thưởng |
|
Lê Quảng Ba (1914–1988) là một tướng lĩnh người Tày đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh đầu tiên Quân khu Việt Bắc. Ông tên thật là Đàm Văn Mông; dân tộc Tày; quê xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Ông là một trong những người đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về nước đầu năm 1941, chịu trách nhiệm nơi ăn, chốn ở, nơi họp và bảo vệ Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8.
Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VI, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.