Lưu Kỳ Linh tên thật là Lưu Trọng Lai (1907-1974), là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.
Lưu Kỳ Linh, sinh tại Cao Lao hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Trước ông học trường Đồng Hới, sau học trường Quốc Học Huế (đến năm thứ 3).
Cha ông là Lưu Trọng Kiến, hiệu Lưu Kỳ Sơn, thi đỗ Cử nhân, làm quan đến chức Tri huyện. Rồi nhân có tang mẹ, ông xin về ở ẩn luôn. Tác phẩm của ông có Kỳ Sơn thi tập.
Lưu Kỳ Linh là anh ruột nhà thơ Lưu Trọng Lư.
Ông là một thi sĩ thuộc thế hệ Thơ mới những năm 30 của thế kỷ 20, đã đăng thơ trên Hà Nội báo, Tao Đàn, Tiểu thuyết thứ bảy...
Theo thông tin trong cuốn Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển hạ), thì từ năm 1927 đến năm 1944, Lưu Kỳ Linh sống ở làng quê (sách không ghi tên làng xã), gần gũi với nông dân, với ruộng vườn; cho nên thơ ông từ này về sau thường giản phác, tự nhiên, có cái nhạc điệu của ca dao và cái phong vị của Đường thi. Ở đó, ông tự học, tự tu, không thầy, không bạn. Từ năm 1944 cho đến nay (1968, là năm tác giả viết bài này), ông về ở Sài Gòn (trừ ba bốn năm ở Nha Trang), làm nghề dạy học và tiếp tục sống an bần lạc đạo...[1]
Lưu Kỳ Linh mất năm 1974, thọ 67 tuổi.
Con trai ông là Trung tá Lưu Trọng Lân, từng là bộ đội pháo cao xạ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và là tác giả xuất bản cuốn sách Ký Ức Đường Trường Sơn (2004), Điện Biên Phủ Trên Không (2002).
Tác phẩm của Lưu Kỳ Linh đều là thơ, gồm có:
Ngoài thơ sáng tác, ông còn dịch một số thơ Đường. Cũng theo cuốn Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển hạ), thì phần lớn số thơ dịch của ông đã bị lửa thiêu rụi trong thời kỳ chiến tranh Pháp-Việt (1946-1954).
Có lần Lưu Kỳ Linh đã tâm sự với bạn rằng:
Năm 1941, Hoài Thanh - Hoài Chân đã viết trong cuốn Thi nhân Việt Nam về Lưu Kỳ Linh như sau:
Năm 1968, tại Sài Gòn, Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng lại giới thiệu ông một lần nữa, đại để như sau:
Thơ của Lưu Kỳ Linh, có thể chia làm hai luồng: Đạo và Đời. Ý thơ trong luồng thơ Đời chứa đựng những lời tình tứ. Nó không lãng mạn như Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Huy Thông...nó rụt rè, nhút nhát, rất mơ tình và xa vắng. Đúng là thứ mộng tình tuyệt đối. Còn luồng thơ Đạo, thì khởi đầu từ khi thi sĩ đi viếng Hòa thượng Thập Tháp ở chùa Tây Hiên về (1942). Sau này, ông còn "kết duyên Đạo" với Đại đức Nhật Long nữa, và cả hai nhà sư này đã gây cho ông "cái cảm giác như được sống trong khí thoát trần"[1].
|
|