Lựu pháo D-20 152 mm | |
---|---|
Loại | Lựu pháo dã chiến hạng nặng |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1950 - nay |
Sử dụng bởi | Liên Xô Nga Cộng hòa Tự trị Krym Trung Quốc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Việt Nam Belarus Lào Tiệp Khắc Hungary Cộng hòa Nhân dân Campuchia Campuchia Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Iraq Ai Cập Israel Angola Ukraina Cuba Cùng nhiều quốc gia khác. |
Trận | Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh Sáu ngày, Chiến tranh Yom Kippur và nhiều cuộc chiến khác |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Phòng thiết kế số 9 (đứng đầu là ông Fedor Fëdorovich Petrov) |
Năm thiết kế | 1947 |
Nhà sản xuất | Nhà máy pháo binh số 9, Yekaterinburg, Liên Xô |
Thông số | |
Khối lượng | 5.700 kg |
Chiều dài | 8,69 m |
Chiều rộng | 2,35 m |
Chiều cao | 1,93 m |
Kíp chiến đấu | 8 |
Cỡ đạn | 152,4 mm |
Góc nâng | -5 ° đến 63 ° |
Xoay ngang | 58° |
Tốc độ bắn | 5-6 phát/phút |
Sơ tốc đầu nòng | 650 m/s |
Tầm bắn hiệu quả | 17,4 km |
Tầm bắn xa nhất | 24 km |
Ngắm bắn | Ống ngắm PG1M hay OP4M |
Lựu pháo D-20 152 mm (Tiếng Nga: 152-мм пушка гаубица Д-20 обр 1955 г) là loại lựu pháo hạng nặng do Liên Xô nghiên cứu thiết kế từ năm 1947 đến năm 1949. Liên Xô bắt đầu tiến hành sản xuất từ năm 1950. NATO nhận được thông tin về nó vào năm 1955 nên họ gọi nó là pháo M-1955. Cục Tên lửa và Pháo binh thuộc Bộ quốc phòng Liên Xô (nay là Liên Bang Nga) (GRAU) đặt tên là 52-P-546. Biến thể nổi tiếng nhất của nó là Lựu pháo kiểu 66 do Trung Quốc sản xuất bất hợp pháp.
D-20 là mẫu lựu pháo đầu tiên của Liên Xô có cỡ nòng lớn cũng như tầm bắn xa của họ lúc bấy giờ. Mẫu lựu pháo cỡ lớn bắt đầu được nghĩ đến từ những khẩu pháo bức kích 152 mm của Quân đội Hoàng gia Anh mà Liên Xô nhận được từ thời thế chiến thứ hai (thông qua chương trình hỗ trợ vũ khí, đạn dược do Anh và Mỹ tiến hành để hỗ trợ Hồng Quân Liên Xô chống quân phát xít Đức). D-20 là mẫu pháo bức kích được thiết kế để thay thế đại bác ML-20 của Liên Xô cũng có cỡ nòng 152 mm dùng từ thời thế chiến thứ hai nhưng nặng nề và có uy lực kém hơn. Liên Xô xếp đại bác D-20 vào nhóm "pháo trung bình" vì sơ tốc đạn của nó vượt quá 600 m/s.
D-20 được thiết kế vào năm 1947 và xuất hiện lần đầu năm 1955. Dẫn đầu đoàn thiết kế là nhà thiết kế pháo binh nổi tiếng Fedor Fedorovich Petrov (1902-1978), ông cũng là tác giả của một số loại pháo của Liên Xô thời thế chiến thứ hai. Được chỉ định sản xuất tại Nhà máy sản xuất pháo binh số 9 tại Sverdlovsk (sau này là tại Nhà máy Motovilikha ở Yekaterinburg). Phiên bản tự hành của D-20 là pháo tự hành 2S3 Akatsiya. Nó trở thành pháo 152mm chính yếu của Hồng quân Liên Xô và Khối Hiệp ước Warsaw. Nó được biên chế thành pháo cấp chiến dịch và tăng cường cho các đơn vị bộ binh cấp trung đoàn, các lữ đoàn bộ binh tăng - thiết giáp hỗn hợp.
Pháo 152mm D-20 khá nặng nề và khó cơ động trên trận địa, nhưng bù lại cho khuyết điểm đó là tầm bắn của nó có thể đạt tới 17,4 km. Pháo D-20 sử dụng chung 1 khung với loại pháo mặt đất nòng dài D-74, được tăng cường 2 bánh xe nhỏ sau chân giá đỡ để có thể di chuyển cơ động hơn và xoay ngang súng dễ dàng hơn. Súng cũng có 1 khiên bảo vệ cho tổ pháo. Nòng pháo ngắn hơn D-74, đường kính lớn hơn, cỡ nòng 152mm và có 1 đầu giảm giật (muzzle brake) 2 lỗ thoát khí thuốc liều phóng. Khi bắn, nòng pháo phóng ra lửa theo đạn như súng phun lửa do sơ tốc đạn nhanh và âm thanh rất đinh tai. Pháo D-20 cũng có hệ thống hãm giật 2 xi-lanh phía trên nòng pháo như D-74 và cả hai loại pháo này đều sử dụng khoá nòng xoắn bắn tự động. Pháo được trang bị hệ thống ngắm khi bắn định hướng (bắn thẳng) cả ban ngày lẫn ban đêm cung cấp cho pháo khả năng chống xe tăng đáng kể.
Pháo bắn đạn FRAG-HE, OF-540 với tốc độ bắn có thể đạt tới 5 - 6 phát 1 phút, 1 tiếng có thể bắn tới 65 phát. Pháo có thể kéo bằng xe bọc thép hay xe tải hạng nặng. D-20 được Trung Quốc chế tạo bất hợp pháp với cái tên Type 66 và viện trợ cho các nước khác.
Các cuộc chiến mà D-20 đã tham gia bao gồm: