Maithripala Sirisena

Maithripala Sirisena
Chức vụ
Tổng thống thứ 7 của Sri Lanka
Nhiệm kỳ9 tháng 1 2015 – 
Tiền nhiệmMahinda Rajapaksa
Nhiệm kỳ3 tháng 5 2004 – 9 tháng 8 2005
Tiền nhiệmW. J. M. Lokubandara
Kế nhiệmNimal Siripala de Silva
Bộ trưởng quản lý nước dùng
Nhiệm kỳ10 tháng 4 2004 – 23 tháng 11 2005
Nhiệm kỳtháng 10 2001 – 21 tháng 11 2014
Tiền nhiệmS. B. Dissanayake
Kế nhiệmAnura Priyadharshana Yapa
Nhiệm kỳ15 tháng 2 1989 – 9 tháng 1 2015
Thông tin cá nhân
Quốc tịchSri Lanka Sri Lankan
Sinh3 tháng 9, 1951 (73 tuổi)
Nghề nghiệpnông dân
Tôn giáođạo Phật
Đảng chính trịĐảng tự do Sri Lanka (1967–2014)
New Democratic Front (2014–hiện tại)
Con cái3
Alma materRoyal College, Polonnaruwa
Sri Lanka School of Agriculture
Maxim Gorky Literature Institute
Websitewww.maithripala.com
Chữ ký

Pallewatte Gamaralalage Maithripala Yapa Sirisena (được biết tới với tên Maithripala Sirisena; tiếng Tamil: மைத்திரிபால சிறிசேன; sinh 3 tháng 9 năm 1951) là một chính trị gia Sri Lanka và là tổng thống thứ 7 của Sri Lanka.[1] Ông bắt đầu sự nghiệp chính trị vào năm 1978 và đã giữ nhiều chức vụ bộ trưởng từ năm 1994. Ông là Tổng thư ký đảng tự do Sri Lanka và bộ trưởng bộ Y tế cho đến tháng 11 2014, khi ông tuyên bố tranh cử tổng thống 2015 như là ứng cử viên của liên minh đối lập. Ông cũng từng là bộ trưởng quốc phòng tạm thời nhiều lần.[2] Vào ngày 9 tháng 1 2015, Maithripala Sirisena được bầu làm tổng thống sau khi đã đánh bại tổng thống đương quyền Mahinda Rajapaksa trong cuộc bầu cử tổng thống Sri Lanka 2015.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Sirisena sinh năm 1951 trong một gia đình nông dân và lớn lên ở huyện Polonnaruwa. Cha ông, Albert Sirisena, đã từng tham dự thế chiến thứ Hai, mà được thưởng 5 mẫu ruộng ở Polonnaruwa gần Parakrama Samudra.[3] Sau khi học nghề 3 năm về nông nghiệp, ông trở thành thành viên của đoàn thanh niên đảng tự do Sri Lanka (SLFP).[4] Năm 1980 ông lấy bằng cử nhân khoa học chính trị tại viện văn chương Maxim GorkyLiên Xô.[5][6]

Sự nghiệp chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi làm việc một thời gian trong hợp tác xã nông nghiệp, từ năm 1978 ông bắt đầu hoạt động chính trị tích cực. 1979 ông được bầu làm bí thư đảng huyện SLFP và từ 1983 chủ tịch đoàn thanh niên SLFP Sri Lanka.[4] 1989 ông được bầu làm đại biểu quốc hội cho khu tuyển cử Polonnaruwa, cũng như những lần bầu cử sau đó 1994, 2000, 2001, 2004 và 2010.[7] Giữa năm 1997 và 2001 cũng như từ 2004 tới 2014 ông đã là bộ trưởng nhiều bộ khác nhau trong chính phủ, bộ sau cùng là bộ Y tế. Từ tháng 6 2001 cho đến 21 tháng 11 2014 ông là tổng thư ký đảng SLFP.

Bất ngờ vào ngày 21 tháng 11 2014, Sirisena trong một cuộc họp báo tuyên bố tranh cử tổng thống cho phe đối lập. Cùng một lúc ông loan báo ra khỏi đảng và từ bỏ chức vụ bộ trưởng. Sirisena cho là tổng thống hiện thời Mahinda Rajapaksa đang dẫn đất nước tới một thể chế độc tài. Sirisena cũng buộc tội ông ta theo đường lối Tư bản nhóm lợi ích, cho là Sri Lanka dưới chế độ Rajapaksa trở nên càng tham nhũng và không tôn trọng pháp luật.[8][9] Sau khi Sirisena thắng cử tổng thống vào ngày 8 tháng 1 2015, ông loan báo, sẽ giới hạn lại quyền lực tổng thống so với quốc hội mà người đi trước đã mở rộng ra, sửa lại đường lối ngoại giao quá thiên Trung Quốc, cũng như xem xét những chương trình chung với nước này xem có bị tham nhũng lũng đoạn không.[10]

Gia đình

[sửa | sửa mã nguồn]

Sirisena không thố lộ nhiều về đời sống gia đình. Ông có vợ, có 2 người con gái và theo đạo phật.[7][11]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Meera Srinivasan. “Sri Lanka election: Rajapaksa 'concedes defeat'. The Hindu.
  2. ^ “Acting Defence Minister”. Daily News (Sri Lanka). ngày 15 tháng 5 năm 2009.
  3. ^ Gunewardene, Prasad (ngày 25 tháng 9 năm 2007). 'Mangala, Sripathi, JVP and UPFA'. Daily News (Sri Lanka).
  4. ^ a b Wiswa Warnapala (15 tháng 2 năm 2009). “Maitripala Sirisena: An embodiment of aspirations of common man” (bằng tiếng Anh). The Sunday Observer (Sri Lanka). Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2014. “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  5. ^ Warnapala, Wiswa (ngày 15 tháng 2 năm 2009). “Maitripala Sirisena: An embodiment of aspirations of common man”. Sunday Observer (Sri Lanka). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  6. ^ Sirisena, Maithripala. “Biography”. http://maithripalasirisena.lk/. Maithripala Sirisena. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2014. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  7. ^ a b “MAITHRIPALA SIRISENA, M.P.” (bằng tiếng Anh). Parliament of Sri Lanka. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2014.
  8. ^ “Sri Lanka minister defects to challenge president” (bằng tiếng Anh). Arab News. 21 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  9. ^ “Maithri takes over traitor's role from Fonseka” (bằng tiếng Anh). The Sunday Observer (Sri Lanka). 23 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2014. “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  10. ^ Friederike Böge: Präsidentenwahl in Sri Lanka. Das Ende einer Ära des Triumphalismus. In: Frankfurter Allgemeine Zeitung, 9. Januar 2015.
  11. ^ “Vote Maithripala” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ 2014-12-06 tại Wayback Machine “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Làm việc tại cơ quan ngoại giao thì thế nào?
Làm việc tại cơ quan ngoại giao thì thế nào?
Bạn được tìm hiểu một nền văn hóa khác và như mình nghĩ hiện tại là mình đang ở trong nền văn hóa đó luôn khi làm việc chung với những người nước ngoài này
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Đây là bản dịch lời của bài [Polumnia Omnia], cũng là bản nhạc nền chủ đạo cho giai đoạn 2 của Boss "Shouki no Kami, Kẻ Hoang Đàng".
Chuỗi phim Halloween: 10 bộ phim tuyển tập kinh dị hay có thể bạn đã bỏ lỡ
Chuỗi phim Halloween: 10 bộ phim tuyển tập kinh dị hay có thể bạn đã bỏ lỡ
Hãy cùng khởi động cho mùa lễ hội Halloween với list phim kinh dị dạng tuyển tập. Mỗi bộ phim sẽ bao gồm những mẩu chuyện ngắn đầy rùng rợn
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Yui (結ゆい) là con gái thứ tám của thủ lĩnh làng Đá và là vợ của Gabimaru.