Mymaridae

Mymaridae
Thời điểm hóa thạch: Creta sớm tới nay
Mymar sp. (female)
Mymar sp. cái
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Arthropoda
Lớp (class)Insecta
Bộ (ordo)Hymenoptera
Phân bộ (subordo)Apocrita
Liên họ (superfamilia)Chalcidoidea
Họ (familia)Mymaridae
Haliday, 1833
Tính đa dạng
0–2 phân họ
chừng 100 chi
khoảng 1.400 loài
Chi điển hình
Mymar
Curtis, 1829
Chi

Mymaridae là một họ tò vò trong liên họ Chalcidoidea sống tại vùng ôn đớinhiệt đới toàn thế giới. Họ gồm chừng 100 chi với 1400 loài.

Các loài Mymaridae rất bé. Chúng thường dài 0,5 đến 1,0 mm (0,020 đến 0,039 in). Họ này có cả loài côn trùng nhỏ nhất, với chiều dài cơ thể chỉ 0,139 mm (0,0055 in), và loài côn trùng bay nhỏ nhất, dài chỉ 0,15 mm (0,0059 in). Chúng thường có màu đen, nâu hay vàng. Râu con cái có chóp phân đốt kiểu dùi cui, còn râu con đực giống sợi chỉ. Cánh mỏng, thường có lông dài, làm chúng trong như cánh chim; ở nhiều loài cánh thoái hóa hay mất hoàn toàn.

Mymaridae là nhóm phổ biến nhất họ Chalcidoidea, dù ít khi bị nhận thấy do kích thước bé nhỏ. Vòng đời của con trưởng thành rất ngắn, thường chỉ dài vài ngày. Mọi loài Mymaridae đều đẻ trứng kí sinh lên trứng của côn trùng khác, và nhiều loài đã được ứng dụng làm thiên địch chống vật hại trong nông nghiệp.

Hóa thạch cổ nhất thuộc họ Mymaridae có niên đại từ ít nhất tầng Alba (khoảng 100 triệu năm trước) của Creta sớm. Đây là họ duy nhất trong liên họ Chalcidoidea ghi nhận từ kỷ Creta, và do vậy là họ nguyên thủy hơn cả.

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]
Tranh minh họa Mymar pulchellum của John Curtis, khoảng năm 1840

Họ Mymaridae được nhà côn trùng học Alexander Henry Haliday đặt ra năm 1833. Haliday và hai người bạn, đồng thời cũng là hai nhà côn trùng học, John CurtisFrancis Walker, có ảnh hưởng lớn trong nghiên cứu Hymenoptera vào thế kỷ XIX.[1][2]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Haliday ban đầu mô tả họ này là tông "Mymares" của họ "Chalcides". Ông lấy cơ sở từ chi điển hình MymarJohn Curtis mô tả năm 1829.[3]

Những phân loại đầu tiên của Walker coi cả nhóm là một chi, còn các phân nhóm là phân chi. Walker (người nổi danh ở việc hay thiếu sót trong đặt danh pháp có hệ thống)[1] sau đó chấp nhận phân loại của Haliday trong một lá thư năm 1839, nhờ vả sự giúp đỡ từ Haliday trong việc phân loại các loài tò vò Chalcidoidea mà Charles Darwin thu thập trong chuyến du hành trên tàu HMS Beagle.[4] "Mymares", cũng như những "tông" khác, được nâng lên cấp họ (thành Mymaridae) bởi Haliday năm 1839.[5][6][7]

Haliday mô tả Mymaridae "nguyên tử của họ Hymenoptera", nhắc đến vẻ đẹp bộ cánh của chúng lúc nhìn dưới kính hiển vi.[3] Đặc điểm này thu hút sự chú ý của cả các nhà côn trùng học và những người thích thú kính hiển vi trong suốt cuối thế kỷ XIX và đầu XX. Những mẫu vật trưng bày của Fred Enock có lẽ nổi tiếng hơn cả.[5][8]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Mymaridae là một họ côn trùng rất phổ biến, nhưng bởi kích thước nhỏ, chúng ít khi bị con người nhận ra.

Chúng sống trong vùng ôn đớinhiệt đới quanh thế giới.[9] Số đông loài có mặt trong rừng nhiệt đới, độ đa dạng tập trung ở bán cầu Nam (Nam Mỹ, New Zealand, và Úc). Tại Bắc Mỹ, chỉ khoảng 28 (trong chừng 100) chi và 120 (trong số 1424) loài được tìm thấy.[10]

Các loài Mymaridae sống sót trong đủ loại môi trường trên cạn, từ hoang mạc đến rừng mưa.[10][11] Ít nhất có năm loài cũng sống thủy sinh, cư ngụ ao suối nước ngọt.[12] Ví dụ như Caraphractus cinctus, lấy cánh làm chèo để bơi quanh.[13] Chúng có thể ở dưới nước đến 15 ngày.[14][15] Tuy vậy, bởi kích thước nhỏ, chúng phải rời nước bằng cách leo lên thân cây chĩa lên trên mặt nước, nếu không thì không thể vượt sức căng bề mặt.[16]

Mymaridae gồm các chi liệt kê dưới đây.[17][18] AllomymarMetanthemus đã được chuyển sang họ Aphelinidae. Chi hoá thạch Protooctonus được xếp vào Mymarommatidae và nay bị coi là danh pháp đồng nghĩa của Archaeromma.[6] Nesopolynema, Oncomymar, và Scolopsopteron cũng được đồng nghĩa hoá với Cremnomymar năm 2013.[19]
Chi đánh dấu † đã tuyệt chủng.

Chi còn sinh tồn

[sửa | sửa mã nguồn]

Chi tuyệt chủng

[sửa | sửa mã nguồn]

Những chi sau được xếp vào Mymaridae:[6][20]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Kari T. Ryder Wilkie. “Francis Walker (1809–1874)”. Global Ant Project – World Ant Taxonomists. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
  2. ^ L. Watson; M. J. Dallwitz. “British Insects”. DELTA, Institute of Botany, Chinese Academy of Sciences. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
  3. ^ a b Alexander Henry Haliday (1833). “An essay on the classification of the parasitic Hymenoptera of Britain which correspond with the Ichneumones minuti of Linnaeus”. The Entomological Magazine. 1.
  4. ^ “Letters from Francis Walker to Alexander Henry Haliday (ngày 29 tháng 7 năm 1839)”. Wikisource.
  5. ^ a b John S. Noyes. Dicopomorpha echmepterygis (Female with "large" male inset. Slide-mounted museum specimen.)”. Universal Chalcidoidea Database, The Natural History Museum.
  6. ^ a b c John T. Huber (2005). “The gender and derivation of genus-group names in Mymaridae and Mymarommatidae (Hymenoptera)” (PDF). Acta Soc. Zool. Bohem. 69: 167–183. ISSN 1211-376X. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
  7. ^ Francis Walker (1846). “Descriptions of Mymaridae”. Annals and Magazine of Natural History. R. & J.E. Taylor. XVIII (116): 49–54. doi:10.1080/037454809494390.
  8. ^ “Helios”. Natural History Museum.
  9. ^ Systematic Entomology Laboratory. “Family Mymaridae”. Agricultural Research Service, United States Department of Agriculture. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2006.
  10. ^ a b John T. Huber (1997). “Chapter 14. Mymaridae”. Trong Gary A. P. Gibson; John Theodore Huber; James Braden Woolley (biên tập). Annotated keys to the genera of Nearctic Chalcidoidea (Hymenoptera). NRC Series. NRC Research Press, National Research Council of Canada. tr. 499–500. ISBN 978-0-660-16669-8.
  11. ^ Elisabetta Chiappini; John T. Huber (2008). “Fairyflies (Hymenoptera: Mymaridae)”. Trong John L. Capinera (biên tập). Encyclopedia of entomology. Springer. tr. 1407–1409. ISBN 978-1-4020-6242-1.
  12. ^ Seguei V. Triapitsyn; Ranyse B. Querino; Malu C.B. Feitosa (2008). “A New Species of Anagrus (Hymenoptera: Mymaridae) from Amazonas, Brazil” (PDF). Neotropical Entomology. 37 (6): 681–684. doi:10.1590/s1519-566x2008000600009.
  13. ^ Gilbert Waldbauer (2008). A Walk Around the Pond: Insects in and Over the Water. Harvard University Press. tr. 25–26. ISBN 978-0-674-02765-7.
  14. ^ J.S. Noyes; E.W. Valentine (1989). “Mymaridae (Insecta: Hymenoptera) — introduction, and review of genera” (PDF). Fauna of New Zealand. DSIR Publishing (17). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
  15. ^ Carl M. Yoshimoto (1990). A review of the genera of New World Mymaridae (Hymenoptera; Chalcidoidea). Sandhill Crane Press. ISBN 978-1-877743-04-7.
  16. ^ May Berenbaum (1993). Ninety-nine more maggots, mites, and munchers. University of Illinois Press. tr. 189. ISBN 978-0-252-06322-0.
  17. ^ Simon van Noort. “Mymaridae: Classification of afrotropical mymarid wasps”. WaspWeb, Iziko South African Museum.
  18. ^ John T. Huber; Gennaro Viggiani; Ricardo Jesu (2009). “Order Hymenoptera, family Mymaridae” (PDF). Arthropod fauna of the UAE. 2: 270–297. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
  19. ^ John T. Huber (2013). “Redescription of Mymarilla Westwood, new synonymies under Cremnomymar Ogloblin (Hymenoptera, Mymaridae) and discussion of unusual wings” (PDF). ZooKeys. 345 (345): 47–72. doi:10.3897/zookeys.345.6209. PMC 3817442. PMID 24194664.
  20. ^ George Poinar Jr.; John T. Huber (2011). “A new genus of fossil Mymaridae (Hymenoptera) from Cretaceous amber and key to Cretaceous mymarid genera”. Trong D.E. Shcherbakov; M.S. Engel; M.J. Sharkey (biên tập). Advances in the Systematics of Fossil and Modern Insects: Honouring Alexandr Rasnitsyn. 130. Pensoft. tr. 461–472. doi:10.3897/zookeys.130.1241. PMC 3260775. PMID 22259293.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Mondstadt và Đại thảm họa Thủy Triều Đen
Mondstadt và Đại thảm họa Thủy Triều Đen
Bối cảnh rơi vào khoảng thời gian khoảng 500 năm sau cuộc khởi nghĩa nhân dân cuối cùng ở Mondstadt kết thúc, Venessa thành lập Đội Kỵ Sĩ Tây Phong để bảo vệ an toàn và duy trì luật pháp cho đất nước
Nhân vật Izana Kurokawa trong Tokyo Revengers
Nhân vật Izana Kurokawa trong Tokyo Revengers
Izana là một người đàn ông mang nửa dòng máu Philippines, nửa Nhật Bản, có chiều cao trung bình với đôi mắt to màu tím, nước da nâu nhạt và mái tóc trắng ngắn thẳng được tạo kiểu rẽ ngôi giữa
Tổng quan về Mangekyō Sharingan - Naruto
Tổng quan về Mangekyō Sharingan - Naruto
Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn là dạng thức cấp cao của Sharingan, chỉ có thể được thức tỉnh và sử dụng bởi rất ít tộc nhân gia tộc Uchiha
Giới thiệu nhân vật Evileye trong Overlord
Giới thiệu nhân vật Evileye trong Overlord
Keno Fasris Invern, trước đây được gọi là Chúa tể ma cà rồng huyền thoại, Landfall, và hiện được gọi là Evileye, là một nhà thám hiểm được xếp hạng adamantite và người làm phép thuật của Blue Roses cũng như là bạn đồng hành cũ của Mười Ba Anh hùng.