Mymaridae là một họtò vò trong liên họ Chalcidoidea sống tại vùng ôn đới và nhiệt đới toàn thế giới. Họ gồm chừng 100 chi với 1400 loài.
Các loài Mymaridae rất bé. Chúng thường dài 0,5 đến 1,0 mm (0,020 đến 0,039 in). Họ này có cả loài côn trùng nhỏ nhất, với chiều dài cơ thể chỉ 0,139 mm (0,0055 in), và loài côn trùng bay nhỏ nhất, dài chỉ 0,15 mm (0,0059 in). Chúng thường có màu đen, nâu hay vàng. Râu con cái có chóp phân đốt kiểu dùi cui, còn râu con đực giống sợi chỉ. Cánh mỏng, thường có lông dài, làm chúng trong như cánh chim; ở nhiều loài cánh thoái hóa hay mất hoàn toàn.
Mymaridae là nhóm phổ biến nhất họ Chalcidoidea, dù ít khi bị nhận thấy do kích thước bé nhỏ. Vòng đời của con trưởng thành rất ngắn, thường chỉ dài vài ngày. Mọi loài Mymaridae đều đẻ trứng kí sinh lên trứng của côn trùng khác, và nhiều loài đã được ứng dụng làm thiên địch chống vật hại trong nông nghiệp.
Hóa thạch cổ nhất thuộc họ Mymaridae có niên đại từ ít nhất tầng Alba (khoảng 100 triệu năm trước) của Creta sớm. Đây là họ duy nhất trong liên họ Chalcidoidea ghi nhận từ kỷ Creta, và do vậy là họ nguyên thủy hơn cả.
Haliday ban đầu mô tả họ này là tông "Mymares" của họ "Chalcides". Ông lấy cơ sở từ chi điển hình Mymar mà John Curtis mô tả năm 1829.[3]
Những phân loại đầu tiên của Walker coi cả nhóm là một chi, còn các phân nhóm là phân chi. Walker (người nổi danh ở việc hay thiếu sót trong đặt danh pháp có hệ thống)[1] sau đó chấp nhận phân loại của Haliday trong một lá thư năm 1839, nhờ vả sự giúp đỡ từ Haliday trong việc phân loại các loài tò vò Chalcidoidea mà Charles Darwin thu thập trong chuyến du hành trên tàu HMS Beagle.[4] "Mymares", cũng như những "tông" khác, được nâng lên cấp họ (thành Mymaridae) bởi Haliday năm 1839.[5][6][7]
Haliday mô tả Mymaridae "nguyên tử của họ Hymenoptera", nhắc đến vẻ đẹp bộ cánh của chúng lúc nhìn dưới kính hiển vi.[3] Đặc điểm này thu hút sự chú ý của cả các nhà côn trùng học và những người thích thú kính hiển vi trong suốt cuối thế kỷ XIX và đầu XX. Những mẫu vật trưng bày của Fred Enock có lẽ nổi tiếng hơn cả.[5][8]
Mymaridae là một họ côn trùng rất phổ biến, nhưng bởi kích thước nhỏ, chúng ít khi bị con người nhận ra.
Chúng sống trong vùng ôn đới và nhiệt đới quanh thế giới.[9] Số đông loài có mặt trong rừng nhiệt đới, độ đa dạng tập trung ở bán cầu Nam (Nam Mỹ, New Zealand, và Úc). Tại Bắc Mỹ, chỉ khoảng 28 (trong chừng 100) chi và 120 (trong số 1424) loài được tìm thấy.[10]
Các loài Mymaridae sống sót trong đủ loại môi trường trên cạn, từ hoang mạc đến rừng mưa.[10][11] Ít nhất có năm loài cũng sống thủy sinh, cư ngụ ao suối nước ngọt.[12] Ví dụ như Caraphractus cinctus, lấy cánh làm chèo để bơi quanh.[13] Chúng có thể ở dưới nước đến 15 ngày.[14][15] Tuy vậy, bởi kích thước nhỏ, chúng phải rời nước bằng cách leo lên thân cây chĩa lên trên mặt nước, nếu không thì không thể vượt sức căng bề mặt.[16]
^ abKari T. Ryder Wilkie. “Francis Walker (1809–1874)”. Global Ant Project – World Ant Taxonomists. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
^L. Watson; M. J. Dallwitz. “British Insects”. DELTA, Institute of Botany, Chinese Academy of Sciences. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
^Systematic Entomology Laboratory. “Family Mymaridae”. Agricultural Research Service, United States Department of Agriculture. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2006.
^Elisabetta Chiappini; John T. Huber (2008). “Fairyflies (Hymenoptera: Mymaridae)”. Trong John L. Capinera (biên tập). Encyclopedia of entomology. Springer. tr. 1407–1409. ISBN978-1-4020-6242-1.
^John T. Huber; Gennaro Viggiani; Ricardo Jesu (2009). “Order Hymenoptera, family Mymaridae”(PDF). Arthropod fauna of the UAE. 2: 270–297. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018.
Bối cảnh rơi vào khoảng thời gian khoảng 500 năm sau cuộc khởi nghĩa nhân dân cuối cùng ở Mondstadt kết thúc, Venessa thành lập Đội Kỵ Sĩ Tây Phong để bảo vệ an toàn và duy trì luật pháp cho đất nước
Izana là một người đàn ông mang nửa dòng máu Philippines, nửa Nhật Bản, có chiều cao trung bình với đôi mắt to màu tím, nước da nâu nhạt và mái tóc trắng ngắn thẳng được tạo kiểu rẽ ngôi giữa
Keno Fasris Invern, trước đây được gọi là Chúa tể ma cà rồng huyền thoại, Landfall, và hiện được gọi là Evileye, là một nhà thám hiểm được xếp hạng adamantite và người làm phép thuật của Blue Roses cũng như là bạn đồng hành cũ của Mười Ba Anh hùng.