Nea Salamis Famagusta FC hay Nea Salamina Famagusta FC (Hy Lạp: Νέα Σαλαμίς Αμμοχώστου) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Ammochostos (còn được gọi trong tiếng Latinh là Famagusta), Síp. Năm 1974, khi Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Síp và chiếm phần phía bắc của đảo, câu lạc bộ có trụ sở tạm thời tại Larnaca.
Thành tích đáng chú ý nhất của Nea Salamina là chiến thắng tại cúp quốc gia Síp và Siêu cúp quốc gia Síp năm 1990. Thứ hạng cao nhất mà đội đạt được tại Cypriot First Division là xếp hạng 3. Trong khoảng thời gian 5 năm đầu (1948–1953), câu lạc bộ thi đấu tại giải vô địch Liên đoàn bóng đá nghiệp dư Síp. Năm 1953 Nea Salamina gia nhập Liên đoàn bóng đá Síp (CFA) và tham gia thường xuyên vào các giải thi đấu, các giải đấu cúp của liên đoàn. Câu lạc bộ đã góp mặt trong hơn 50 mùa giải Cypriot First Division, đứng thứ 7 trong số các đội tham dự nhiều nhất.
Sân vận động Ammochostos, thuộc sở hữu của Nea Salamina tại Larnaca, có sức chứa 5,000 chỗ ngồi và được sử dụng chủ yếu cho bóng đá. Quyết định xây dựng sân vận động được đưa ra vào năm 1989 và được khởi công vào tháng 12 năm đó, nhờ các cổ động viên của câu lạc bộ tại Síp và nước ngoài, Hiệp hôi thể thao Síp và các tình nguyện viên, sân vận động đã được hoàn thành đúng tiến độ.[1] Trận đấu đầu tiên của Nea Salamina Famagusta trên sân đấu mới diến ra vào thứ 7, 12 tháng 10 năm 1991, gặp Evagoras Paphos. Nea Salamina giành chiến thắng 4–1.[2] Sân vận động Ammochostos cũng là nơi tổ chức trận chung kết giải vô địch bóng đá U16 châu Âu vào ngày 17 tháng 5 năm 1992 giữa Đức và Tây Ban Nha, kết thúc với chiến thắng 2–1 của Đức.[3]
Biểu tượng của Nea Salamina là sự kết hợp giữa ngọn đuốc Olympic, màu đỏ và 5 vòng tròn của Thế vận hội.[4] màu sắc chủ đạo của đội trong 2 năm đầu là vàng và đỏ thẫm,[4][5] khi đội còn là thành viên Liên đoàn bóng đá nghiệp dư Síp. Sau năm 1950, câu lạc bộ chuyển sang màu đỏ và trắng:[4][5] màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh, và màu trắng mang ý nghĩa hòa bình. Áo sọc đỏ trắng được lựa chọn vì chúng giống trang phục của câu lạc bộ Olympiakos Piraeus.[4]
1số lần thi đấu ít hơn 100, nhưng ông khởi đầu sự nghiệp tại Nea Salamina FC và sau đó trở thành cầu thủ thi đấu nhiều nhất trong lịch sử cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Síp.
nguồn: Stilianou, 1998
^“The Team”. Apollon FC. www.neasalamina.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2015.
^ ab“Ορφανίδης ο 38ος!” (bằng tiếng Hy Lạp). typos.com.cy. 7 tháng 4 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013.
^ ab“ΟΜΑΔΕΣ 2006-2007” (bằng tiếng Hy Lạp). philenews.com. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013.
^“Νέος προπονήτης στη Νέα Σαλαμίνα” (bằng tiếng Hy Lạp). typos.com.cy. 5 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013.
^“Νέα Σαλαμίνα: Παρελθόν ο Τούτιτς” (bằng tiếng Hy Lạp). shootandgoal.com. 17 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2013.
Gavreilides, Michalis; Papamoiseos, Stelios (2001). Ένας αιώνας Κυπριακό ποδόσφαιρο [One century Cypriot football] (bằng tiếng Hy Lạp). Nicosia: The writer. ISBN9963-8720-1-8.
Meletiou, Giorgos (2011). Κυπριακό ποδόσφαιρο 1900–1960 [Cypriot Football 1900–1960] (bằng tiếng Hy Lạp). Nicosia: Power Publishing. ISBN978-9963-688-87-6.
Stilianou, Pampos; Georgiou, Neofitos (1988). Νέα Σαλαμίνα, 40 χρόνια πρωτοπόρας αθλητικής πορείας [Nea Salamina, 40 years pioneering sports history] (bằng tiếng Hy Lạp). Cyprus: Nea Salamina Famagusta.
Stilianou, Pampos (1998). 50 χρόνια Νέα Σαλαμίνα 1948–1998 [50 years Nea Salamina 1948–1998] (bằng tiếng Hy Lạp). Cyprus: Nea Salamina Famagusta. ISBN9963-8370-0-X.
Stephanidis, Giorgos (2003). 40 χρόνια κυπριακές ομάδες στην Ευρώπη [40 years Cypriot teams in Europe] (bằng tiếng Hy Lạp). Nicosia: Haravgi. ISBN9963-8841-1-3.
Mặc dù Kaeya sở hữu base ATK khá thấp so với mặt bằng chung (223 ở lv 90 - kém khá xa Keqing 323 ở lv 90 hay Qiqi 287 ờ lv 90) nhưng skill 1 của Kaeya có % chặt to
Momonga's Red Orb Một trong những (World Item) Vật phẩm cấp độ thế giới mạnh mẽ nhất trong Đại Lăng Nazarick và là "lá át chủ bài" cuối cùng của Ainz .