Ngày Giải phóng Triều Tiên | |
Tên gọi ở Hàn Quốc | |
---|---|
Hangul | |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Gwangbokjeol (Quang Phục Tiết) |
McCune–Reischauer | Kwangbokchŏl |
Tên gọi ở CHDCND Triều Tiên | |
Hangul | 조국해방의 날 |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Jogukhaebangui nal (Tổ Quốc giải phóng) |
McCune–Reischauer | Chogukhaebang'ŭi nal |
Quang Phục Tiết, (Gwangbokjeol, "Ngày khôi phục ánh sáng"), hay còn gọi là Ngày Giải phóng Quốc gia Triều Tiên, là một trong các ngày nghỉ lễ ở Đại Hàn Dân quốc (còn gọi là Đại Hàn, Hàn Quốc hoặc Nam Hàn) và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên), nhằm ngày 15 tháng 8 hằng năm. Ngày này dùng để kỷ niệm sự kiện Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh năm 1945 sau chiến tranh thế giới thứ 2, nhờ đó Triều Tiên thoát khỏi ách thuộc địa. Đây là ngày lễ duy nhất được kỷ niệm ở cả hai miền bán đảo Triều Tiên.
Các chính quyền độc lập ở bán đảo Triều Tiên đã ra đời 3 năm sau đó, ngày 15 tháng 8 năm 1948, khi Kim Nhật Thành thân Liên Xô trở thành Chủ tịch nước đầu tiên của CHDCND Triều Tiên và Lý Thừa Vãn thân Mỹ trở thành Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc. Ngày Quang Phục được Hàn Quốc chính thức chỉ định là ngày lễ công cộng vào ngày 1 tháng 10 năm 1949[1] và được gọi là Chogukhaebangŭi nal. (조국해방의 날; "Ngày Giải phóng Tổ quốc") tại CHDCND Triều Tiên.[2]