Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai
|
|
---|---|
Liên Hợp Quốc 1939 – 1945 | |
Lá cờ danh dự Liên Hợp Quốc (1943 – 1948) | |
Các quốc gia bị chiếm đóng với chính phủ lưu vong:
Các quốc gia chiến đấu khác thuộc phe Đồng minh:
| |
Vị thế | Liên minh quân sự |
Lịch sử | |
Thời kỳ | Thế chiến thứ hai |
31 tháng 3 năm 1939 | |
12 tháng 6 năm 1941 | |
12 tháng 7 năm 1941 | |
22 tháng 12 năm 1941 – 14 tháng 1 năm 1942 | |
28 tháng 11 – 1 tháng 12 năm 1943 | |
1–15 tháng 7 năm 1944 | |
4–11 tháng 2 năm 1945 | |
25 tháng 4 – 26 tháng 6 năm 1945 | |
17 tháng 7 – 2 tháng 8, 1945 |
Đồng Minh là một khối liên minh quân sự quốc tế được thành lập trong cuộc Thế chiến thứ hai, để chống lại sự bành trướng của phe Trục, do Đức Quốc Xã, Đế quốc Nhật Bản và Phát xít Ý lãnh đạo. Hình thành từ các thoả ước đồng minh giữa các quốc gia Anh, Pháp, Ba Lan sau khi Đức Quốc Xã tấn công và xâm chiếm Ba Lan, khối Đồng minh được bổ sung bởi các thuộc địa của Anh và Pháp như Ấn Độ thuộc Anh, cũng như các lãnh thổ tự trị độc lập trong Khối thịnh vượng chung Anh như Canada, Úc, New Zealand và Nam Phi. Sau đó, khối Đồng minh tiếp tục được mở rộng khi Đức Quốc Xã tiến hành các chiến dịch xâm chiếm Bắc Âu và vùng Balkan, với sự gia nhập của các chính phủ lưu vong của Hà Lan, Bỉ, Na Uy, Hy Lạp và Nam Tư.
Do tình thế chiến tranh, tư cách thành viên trong khối Đồng minh thay đổi trong suốt cuộc chiến. Chính phủ Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan được thay thế bởi Chính phủ Ba Lan lưu vong; chính phủ Đệ Tam Cộng hòa Pháp sụp đổ, phân chia thành Chính phủ Vichy ngả về phe Trục và chính phủ Pháp quốc Tự do kháng chiến cùng khối Đồng minh. Thực tế khi đó, đây chỉ mới là một khối liên minh lỏng lẻo với Anh giữ vai trò chính trong khối và là quốc gia duy nhất ở Tây Âu chưa bị Đức Quốc xã xâm lược. Hoạt động chiến trường lúc này chủ yếu được thực hiện bởi lực lượng kháng chiến của các chính phủ lưu vong ở Mặt trận Tây Âu và của các đạo quân viễn chinh Anh - Pháp Tự do trên Mặt trận Bắc Phi.
Trong khi đó, Liên Xô sau khi kí kết Hiệp ước Molotov – Ribbentrop, nhân cơ hội Đức xâm chiếm Ba Lan, đã cho quân tiến vào vùng lãnh thổ phía Đông đường Curzon (Curzon Line) mà họ cho rằng phía Ba Lan đã chiếm từ lãnh thổ của Nga Xô viết từ năm 1918 đến 1922. Mặc dù vậy, Liên Xô vẫn tuyên bố trung lập, đứng ngoài cuộc chiến ở Tây Âu, dù họ cũng gấp rút xây dựng hệ thống phòng thủ Molotov (Линия Молотова, Liniya Molotova) ở biên giới mới phía Tây đề phòng người Đức trở mặt. Tương tự, Hoa Kỳ cũng tuyên bố trung lập đối với cuộc chiến, dù Hoa Kỳ giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các trang thiết bị, phương tiện chiến tranh và tiền bạc cho các quốc gia Đồng minh bên kia bờ đại dương. Ở châu Á, Trung Quốc đã có một cuộc chiến kéo dài với nước Nhật đế quốc kể từ Sự kiện Lư Câu Kiều năm 1937, nhưng vẫn bị xem là một cuộc xung đột riêng rẽ giữa hai quốc gia châu Á.
Mãi đến ngày 12 tháng 6 năm 1941, các nước Đồng minh mới chính thức ra một tuyên bố chung đầu tiên về các mục tiêu và nguyên tắc của các quốc gia Đồng minh tham chiến chống phe Trục.[1] Tuyên bố chung này được biết đến với tên gọi Tuyên bố Cung St James hay Tuyên bố London,[2] với sự tham gia của Vương quốc Anh, 4 quốc gia của Khối thịnh vượng chung (Canada, Úc, New Zealand và Nam Phi), 8 chính phủ lưu vong (Bỉ, Tiệp Khắc, Hy Lạp, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Nam Tư) và chính phủ kháng chiến Pháp quốc Tự do.
Tình hình nhanh chóng thay đổi từ sau khi Đức Quốc xã mở các cuộc tấn công vào Liên Xô ngày 22 tháng 6 năm 1941. Liên Xô ngay lập tức đứng về khối Đồng minh và ký với Anh hiệp ước liên minh chống lại Đức Quốc Xã ngày 12 tháng 7 năm 1941. Chiến trường phía Đông trở thành chiến trường chính và là chiến trường khốc liệt nhất, góp phần làm suy yếu khả năng kiểm soát của Đức Quốc xã ở Tây Âu, giảm sức ép cho khối Đồng minh ở Tây Âu. Mỹ cũng tuyên bố huỷ bỏ tình trạng trung lập, chính thức tham chiến đứng về khối Đồng minh, sau khi Nhật Bản bất ngờ các cuộc oanh tạc các căn cứ quân sự của Mỹ ở Hawaii ngày 7 tháng 12 năm 1941. Hai ngày sau đó, ngày 9 tháng 12 năm 1941, Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân quốc dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch, cũng được mời tham gia khối Đồng minh.
Liên minh quân sự này được chính thức hóa bởi bản Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc từ ngày 1 tháng 1 năm 1942. Tuy nhiên, cái tên "Liên Hợp Quốc" hiếm khi được sử dụng để mô tả quân Đồng Minh trong các cuộc chiến tranh. Các nhà lãnh đạo thuộc khối "Tam cường Đồng Minh" lúc đó gồm Liên Xô, Anh và Hoa Kỳ đã kiểm soát chiến lược phe phái này; trong đó, quan hệ giữa Anh với Mỹ là đặc biệt thân cận. Tam cường cùng với Trung Quốc được gọi là "người ủy trị của quyền lực thế giới",[3] sau đó được công nhận là "Tứ cự đầu" của phe Đồng Minh trong Tuyên bố Liên Hợp Quốc[4] và sau là "Tứ cảnh sát" của Liên Hợp Quốc. Sau khi cuộc thế chiến kết thúc, các quốc gia thuộc khối Đồng Minh xưa, nay trở thành nền tảng của tổ chức Liên Hợp Quốc hiện đại.[5]
Nguồn gốc của khối Đồng Minh bắt nguồn từ Khối Đồng Minh thời Thế chiến thứ nhất và sự hợp tác của các cường quốc thắng trận tại Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919. Nước Đức đế quốc không bằng lòng ký Hòa ước Versailles. Tính hợp pháp của chế độ Cộng hòa Weimar mới bị lung lay.
Với việc thị trường chứng khoán phố Wall sụp đổ năm 1929 và tiếp theo cuộc Đại khủng hoảng, bất ổn chính trị ở châu Âu tăng vọt trong đó có sự gia tăng trong việc hỗ trợ chủ nghĩa phục thù dân tộc ở Đức, họ đổ lỗi cho mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế lên Hòa ước Versailles. Đến đầu những năm 1930, Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa do Adolf Hitler lãnh đạo đã trở thành phong trào phục thù thống trị ở Đức, Hitler và phe Quốc xã đã giành được quyền lực vào năm 1933. Chính quyền Đức phát xít yêu cầu hủy bỏ ngay lập tức bản hòa ước và đưa ra yêu sách đối với nước Áo, nơi có nhiều người Đức sinh sống và các vùng lãnh thổ thuộc Tiệp Khắc của Đức. Khả năng xảy ra chiến tranh là rất cao, và câu hỏi đặt ra là liệu nó có thể tránh được thông qua các chiến lược như nhượng bộ.
Tại châu Á, khi Nhật Bản tiến hành các chiến dịch chiếm Mãn Châu năm 1931, tổ chức quốc tế Hội Quốc Liên đã lên án hành vi xâm lược Trung Quốc. Nước Nhật đã đáp trả bằng cách rời khỏi tổ chức vào tháng 3 năm 1933. Sau bốn năm yên ổn, Chiến tranh Trung – Nhật bùng nổ vào năm 1937 với quân đội Nhật xâm chiếm Trung Quốc. Hội Quốc Liên tiếp tục lên án hành động và áp đặt các lệnh trừng phạt đối với nước này. Hoa Kỳ đặc biệt giận dữ với Nhật Bản và tìm cách hỗ trợ nước Trung Hoa Dân Quốc.
Vào tháng 3 năm 1939, Đức xâm lược Tiệp Khắc, điều đó vi phạm Hiệp ước München mà Đức Quốc xã đã kí kết sáu tháng trước đó, và chứng minh rằng chính sách nhượng bộ là một thất bại. Anh và Pháp quyết định rằng Hitler không có ý định duy trì các thỏa thuận ngoại giao và đáp trả bằng cách chuẩn bị cho cuộc chiến tranh. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1939, Anh thành lập Liên minh quân sự Anh – Ba Lan trong nỗ lực ngăn chặn một cuộc tấn công của Đức vào đất nước này. Trước đó, người Pháp đã liên minh với Ba Lan kể từ năm 1921. Liên Xô thì tìm kiếm một liên minh với các cường quốc phương Tây, nhưng Hitler đã chấm dứt nguy cơ chiến tranh với Stalin bằng cách ký Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau vào tháng 8 năm 1939. Thỏa thuận đã bí mật phân chia các quốc gia độc lập ở Đông Âu giữa hai cường quốc và đảm bảo cung cấp đủ dầu cho cỗ máy chiến tranh của Đức. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức tiến đánh Ba Lan; hai ngày sau, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Tiếp theo đó, vào ngày 17 tháng 9 năm 1939, Liên Xô tấn công Ba Lan từ phía đông. Chính phủ lưu vong Ba Lan được thành lập và nó tiếp tục là một trong những đồng minh, một mô hình theo sau bởi các quốc gia bị chiếm đóng khác. Sau một mùa đông yên ổn, Đức vào tháng 4 năm 1940 đã xâm chiếm và nhanh chóng đánh bại lần lượt các nước Tây Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan và Pháp. Anh và đế chế của nó một mình chống lại Hitler và Mussolini. Vào tháng 6 năm 1941, Hitler đã xé bỏ thỏa thuận không xâm lược với Stalin và mở các cuộc tấn công vào Liên bang Xô viết. Vào tháng 12, Nhật Bản tấn công Hoa Kỳ và Anh. Các phe chính của Thế chiến II được hình thành.