Người Armenia chiếm phần lớn dân số của Cộng hòa Armenia. Bởi các sự xâm chiếm lâu dài của ngoại bang, một lượng lớn (khoảng 5 triệu) người hải ngoại có gốc gác hoàn toàn hoặc phần nào từ tổ tiên Armenia hiện sống bên ngoài nước Armenia hiện đại. Hầu hết trong số đó sống tại Nga, Hoa Kỳ, Pháp, Gruzia, Iran, Liban, và Syria. Ngoại trừ trường hợp ở Gruzia, Iran, Nga và các quốc gia cựu Xô viết, người Armenia hải ngoại ngày nay hình thành chủ yếu theo sau nạn Diệt chủng Armenia.[18]
^Cộng hòa Nagorno-Karabakh trên thực tế độc lập và thường được hợp vào Armenia, tuy nhiên thường được quốc tế công nhận là một phần của Azerbaijan trên danh nghĩa
^Cộng hòa Abkhazia trên thực tế độc lập và thường được hợp vào Nga, tuy nhiên thường được quốc tế công nhận là một phần của Gruzia trên danh nghĩa
Freedman, Jeri (2008). The Armenian genocide. New York: Rosen Publishing Group. tr. 52. ISBN9781404218253. In contrast to its population of 3.2 million, approximately 8 million Armenians live in other countries of the world, including large communities in the United States and Russia.
Guntram H. Herb, David H. Kaplan (2008). Nations and Nationalism: A Global Historical Overview: A Global Historical Overview. Santa Barbara, California: ABC-CLIO. tr. 1705. ISBN9781851099085. A nation of some 8 million people, about 3 million of whom live in the newly independent post-Soviet state, Armenians are constantly battling not to lose their distinct culture, identity and the newly established statehood.
^Canada National Household Survey, Statistics Canada, 2011, truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2013. Of those, 31,075 reported single and 24,675 mixed Armenian ancestry.
^Richard G. Hovannisian, The Armenian people from ancient to modern times: the fifteenth century to the twentieth century, Volume 2, p. 427, Palgrave Macmillan, 1997.
^see Hastings, Adrian (2000). A World History of Christianity. Wm. B. Eerdmans Publishing. tr. 289. ISBN978-0-8028-4875-8.