Người Negrito

Negrito
Đàn ông người Aeta ở Kalibo, đảo Panay, Philippines
Khu vực có số dân đáng kể
 Ấn Độ (Quần đảo Andaman và Nicobar)
 Malaysia (Bán đảo Malaysia)
 Philippines (Luzon, Palawan, Panay, Negros, Mindanao)
 Thái Lan (Nam Thái Lan)
Tôn giáo
Vật linh (Animism)
Onge, Quần đảo Andaman, Ấn Độ.

Người Negrito là những nhóm dân tộc sinh sống ở các vùng biệt lập ở Đông Nam Á. Quần thể hiện tại của họ bao gồm các dân tộc Andamanquần đảo Andaman, SemangMalaysia, Mani[1]Thái Lan, và Aeta, Agta, Ati cùng chừng 30 dân tộc khác ở Philippines.[2][3]

Dựa trên những điểm tương đồng về thể chất, Negritos từng được coi là một nhóm dân cư duy nhất gồm những người có quan hệ họ hàng gần. Tuy nhiên, các nghiên cứu di truyền cho thấy chúng nằm dọc theo một khe giữa các nhóm liên quan đến Đông Á và các nhóm liên quan đến Papuan, cho thấy rằng chúng bao gồm một số nhóm riêng biệt. Phần lớn họ đã bị thay thế hoặc hấp thụ vào các dân tộc Austronesian hoặc tạo thành các nhóm thiểu số ở các vùng cách biệt về địa lý.[4][5][6][7][8]

Trong lịch sử, họ tham gia buôn bán với người dân địa phương nhưng cũng thường xuyên phải chịu các cuộc truy quét nô lệ trong khi cũng phải cống nạp cho các nhà cai trị và vương quốc Đông Nam Á địa phương kể từ năm 724 sau Công nguyên.[9]

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

"Negrito" theo tiếng Tây Ban Nha là "người da đen nhỏ bé", số nhiều là 'negritos', được các nhà thám hiểm châu Âu trước đây đặt ra để chỉ người da đen có tầm vóc nhỏ bé.

Thỉnh thoảng, một số người gọi người Negrito là Negrillo (người Pygmy), ghép họ chung với dân tộc của tầm vóc cơ thể tương tự như ở Trung Phi. Mặt khác Negrito thỉnh thoảng trước đây cũng được sử dụng để chỉ người Pygmychâu Phi.

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]
PCA đã tính toán trên các quần thể Âu-Á, bao gồm cả các mẫu Negrito. Người da đen cổ đại và hiện đại nằm dọc theo một khe giữa người Đông Á và người Papuans, không tạo thành một nhóm dân cư duy nhất.
PCA đã tính toán cho người Đông Á và người Úc ngày nay và cổ đại. PC1 (23,8%) phân biệt người Đông Á và người Australo-Melanesia, trong khi PC2 (6,3%) phân biệt người Đông Á dọc theo đường cát từ Bắc đến Nam. Các mẫu Negrito được định vị dọc theo một khe núi giữa các nhóm Đông Nam Á và người Papuans. Một mẫu săn bắn hái lượm Holocen (Leang Panninge) ở Nam Sulawesi được phát hiện có khoảng 50% tổ tiên là người gốc Đông Á và 50% có tổ tiên là người Papuan.

Một số nghiên cứu đã gợi ý rằng mỗi nhóm nên được xem xét riêng biệt, vì bằng chứng di truyền bác bỏ khái niệm về một tổ tiên chung cụ thể giữa các nhóm "Negrito" ở Quần đảo Andaman, Bán đảo Mã Lai và Philippines.[10] Thật vậy, tình cảm này được lặp lại trong một tác phẩm gần đây hơn từ năm 2013 kết luận rằng các nhóm được phân loại là Negrito không có chung tổ tiên với nhau.[11]

Một số nghiên cứu gần đây, phát hiện ra rằng các nhóm khác nhau được phân loại là Negritos, tồn tại trên một khe giữa người Đông Á và người Papuans. Người Andaman được phát hiện phần lớn thuộc "tổ tiên gốc Đông Á" và gần gũi nhất với người Đông Á đương đại, bao gồm các mẫu Đông Á cổ đại, chẳng hạn như người Tianyuan ở miền bắc Trung Quốc, trong khi rõ ràng khác biệt với các nhóm có liên quan đến Papuan. Các dân số liên quan đến Đông Á và các nhóm liên quan đến Papuans được ước tính đã tách khỏi nhau vào năm 58.000 trước Công nguyên.[4][5][6][7][8]

Một nghiên cứu di truyền gần đây cho thấy rằng không giống như nhóm khác trong Malesia (tức Malayo-Indonesia), Negrito Andaman thiếu phần gen DNA Hominin Denisova[Ghi chú 1]. Gen Denisova được tìm thấy trong các quần thể người MelanesiaÚc bản địa là 4-6% [12].

  1. ^ Người Denisova xác định từ di cốt của một cá thể tìm thấy tại hang Denisovavùng Altai, Nga, và được định tuổi là 41 Ka.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Weber George, Thonghom. (2013). The Mani. The Negrito of Thailand.
  2. ^ The skeletal phenotype of "negritos" from the Andaman Islands and Philippines relative to global variation among hunter-gatherers. Human Biology 85, p. 67–94. PMID 24297221.
  3. ^ Robert Lindsay, 2009. The Peopling of the Philippines Lưu trữ 2015-05-22 tại Wayback Machine. Truy cập 01/09/2015.
  4. ^ a b Larena, Maximilian; Sanchez-Quinto, Federico; Sjödin, Per; McKenna, James; Ebeo, Carlo; Reyes, Rebecca; Casel, Ophelia; Huang, Jin-Yuan; Hagada, Kim Pullupul (30 tháng 3 năm 2021). “Multiple migrations to the Philippines during the last 50,000 years”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America. 118 (13): e2026132118. doi:10.1073/pnas.2026132118. ISSN 0027-8424. PMC 8020671. PMID 33753512.
  5. ^ a b Carlhoff, Selina; Duli, Akin; Nägele, Kathrin; Nur, Muhammad; Skov, Laurits; Sumantri, Iwan; Oktaviana, Adhi Agus; Hakim, Budianto; Burhan, Basran (tháng 8 năm 2021). “Genome of a middle Holocene hunter-gatherer from Wallacea”. Nature (bằng tiếng Anh). 596 (7873): 543–547. doi:10.1038/s41586-021-03823-6. ISSN 1476-4687.
  6. ^ a b Larena, Maximilian; McKenna, James; Sanchez-Quinto, Federico; Bernhardsson, Carolina; Ebeo, Carlo; Reyes, Rebecca; Casel, Ophelia; Huang, Jin-Yuan; Hagada, Kim Pullupul (11 tháng 10 năm 2021). “Philippine Ayta possess the highest level of Denisovan ancestry in the world”. Current Biology. 31 (19): 4219–4230.e10. doi:10.1016/j.cub.2021.07.022. ISSN 0960-9822. PMC 8596304. PMID 34388371.
  7. ^ a b “Genomic insights into the origin of pre-historic populations in East Asia”. www.mpg.de (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
  8. ^ a b Genetics and material culture support repeated expansions into Paleolithic Eurasia from a population hub out of Afri, Vallini et al. 2021 (October 15, 2021) Quote: "Taken together with a lower bound of the final settlement of Sahul at 37 kya (the date of the deepest population splits estimated by 1) it is reasonable to describe Oceanians as an almost even mixture between East Asians and a basal lineage, closer to Africans, which occurred sometimes between 45 and 37kya."
  9. ^ America, Chinese Art Society of (1963). Archives of the Chinese Art Society of America (bằng tiếng Anh). Chinese Art Society of America.
  10. ^ Hill, Catherine; Soares, Pedro; Mormina, Maru; Macaulay, Vincent; Meehan, William; Blackburn, James; Clarke, Douglas; Raja, Joseph Maripa; Ismail, Patimah (tháng 12 năm 2006). “Phylogeography and Ethnogenesis of Aboriginal Southeast Asians”. Molecular Biology and Evolution (bằng tiếng Anh). 23 (12): 2480–2491. doi:10.1093/molbev/msl124. ISSN 1537-1719.
  11. ^ Chaubey, Gyaneshwer; Endicott, Phillip (tháng 6 năm 2013). “The Andaman Islanders in a Regional Genetic Context: Reexamining the Evidence for an Early Peopling of the Archipelago from South Asia”. Human Biology. 85 (1/3): 153–172. doi:10.3378/027.085.0307. ISSN 0018-7143.
  12. ^ Reich, et al. (2011). Denisova Admixture and the First Modern Human Dispersals into Southeast Asia and Oceania. The American Journal of Human Genetics. PMID 21944045.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Trùng trụ Kochou Shinobu trong Kimetsu no Yaiba
Trùng trụ Kochou Shinobu trong Kimetsu no Yaiba
Kochou Shinobu「胡蝶 しのぶ Kochō Shinobu」là một Thợ Săn Quỷ, cô cũng là Trùng Trụ của Sát Quỷ Đội.
Download Saya no Uta Việt hóa
Download Saya no Uta Việt hóa
Trong thời gian sống tại bệnh viện, Fuminori đã gặp 1 cô gái xinh đẹp tên Saya
Arlecchino – Lối chơi, hướng build và đội hình
Arlecchino – Lối chơi, hướng build và đội hình
Arlecchino là DPS hệ hỏa, với các cơ chế liên quan tới Khế ước sinh mệnh, đi được cả mono hỏa lẫn bốc hơi, nhưng có thể sẽ gặp vấn đề về sinh tồn.
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Đây là bản dịch lời của bài [Polumnia Omnia], cũng là bản nhạc nền chủ đạo cho giai đoạn 2 của Boss "Shouki no Kami, Kẻ Hoang Đàng".