Nguyễn Văn Hiệu | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 2004 – 2005 |
Tiền nhiệm | thành lập trường |
Kế nhiệm | Nguyễn Hữu Đức |
Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | 1983 – 1994 |
Tiền nhiệm | Trần Đại Nghĩa |
Kế nhiệm | Đặng Vũ Minh |
Viện trưởng Viện Vật lý | |
Nhiệm kỳ | 1969 – 1993 |
Tiền nhiệm | thành lập |
Kế nhiệm | Đào Vọng Đức |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Hà Cầu, Hà Đông, Hà Nội | 21 tháng 7, 1938
Mất | 23 tháng 1, 2022 Hà Nội | (83 tuổi)
Nguyễn Văn Hiệu (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 – mất ngày 23 tháng 1 năm 2022[1]) là giáo sư, nhà vật lý, và chính trị gia của Việt Nam. Ông là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khoá VI, VII, và VIII; ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V; đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam các khoá IV, V, VI, VII, và VIII; nguyên viện trưởng Viện Vật lý (Việt Nam), Viện Khoa học Vật liệu Việt Nam, và nguyên chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Ông còn là hiệu trưởng sáng lập Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông là giáo sư[2], tiến sĩ khoa học ngành vật lý lý thuyết và vật lý toán học xuất sắc của Việt Nam; là viện sĩ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới thứ 3.
Nguyễn Văn Hiệu sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 tại Cầu Đơ, nay thuộc phường Hà Cầu, quận Hà Đông, Hà Nội trong một gia đình viên chức nhỏ.
Từ năm 1960 đến năm 1963, ông đã nghiên cứu và công bố 12 công trình nghiên cứu về vật lý neutrino. sau đó Viện nghiên cứu hạt nhân Dupna quyết định thành lập một nhóm nghiên cứu mới và giao cho ông phụ trách, nhóm gồm các nhà vật lý thuộc nhiều quốc tịch: Liên Xô, Hungary, Romania và Việt Nam. Dưới sự hướng dẫn của ông, 6 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Năm 1967 ông hoàn thành tập sách gồm 20 công trình nghiên cứu có tựa đề "Thuyết đối xứng đơn của các hạt cơ bản" và được nhà xuất bản Nguyên Tử in ở Moskva năm 1967 với lời giới thiệu của nhà bác học danh tiếng Bogolubov, viện trưởng Viện Dupna.
Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu là tác giả của 130 công trình nghiên cứu khoa học, trải rộng trên nhiều lĩnh vực, từ tương tác yếu và đối xứng của các hạt cơ bản, đến lý thuyết giải tích về tương tác mạnh và lý thuyết trường, rồi phương pháp lý thuyết trường lượng tử trong vật lý chất rắn, trong đó có nhiều công trình được công bố trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế có uy tín.
Trong công tác quản lý ông đã có đóng góp to lớn trong việc thành lập Viện Vật lý, Viện Khoa học Việt Nam và trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra ông còn là đại biểu Quốc hội của nước CHXHCN Việt Nam 5 khoá liên tiếp từ khoá IV tới khoá VIII.
Ngày 4 tháng 5 năm 1964, nhà báo Liên Xô Svanev viết một bài dài tường thuật buổi bảo vệ luận án của Nguyễn Văn Hiệu, trong đó có đoạn ghi lại nhận định của viện sĩ Markov khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Svanev:[3]
“ | Đồng chí và tôi - lời viện sĩ Markov - đang tiếp xúc với một con người xuất chúng. Đôi khi người ta thực sự gặp may trong công việc nhờ tìm thấy một ý tưởng thiên tài dẫn đến những kết quả quan trọng, như tìm thấy một mỏ vàng. Nguyễn Văn Hiệu đi theo một con đường khác. Như người ta thường nói, anh không ngồi chờ khoa học đến "bố thí"; anh đã đạt được những kết quả đáng ngạc nhiên bằng cách lao động rất nhiều, bằng năng lực lao động rất lớn. Viện Dubna tạo cho anh một môi trường thuận lợi. Mọi điều còn lại phụ thuộc vào lao động và phẩm chất cá nhân. Nguyễn Văn Hiệu là một nhà bác học thật lớn. | ” |
Ông là anh cả trong gia đình có 10 anh chị em. Tất cả 10 anh em trong gia đình đều tốt nghiệp đại học. Ngoài GS Hiệu còn có 6 người là tiến sĩ, 1 người là phó giáo sư. Trong số những người em của ông có thể kể đến phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoài Châu, công tác tại Viện Công nghệ Môi trường, và Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, thường được biết đến với biệt danh "Ông già Ô-zôn".[6]
Ông có hai đời vợ. Người vợ đầu là bà Nguyễn Thị Hồng, cũng là một nhà vật lý lý thuyết tài năng. Bà bảo vệ luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) năm 1973, và tiến sĩ khoa học năm 1984. Sau khi bà Hồng qua đời, ông kết hôn với người vợ thứ hai là bà Nguyễn Thị Bích Hà.
Ông có một con trai cũng là tiến sĩ vật lý. Cháu nội ông cũng theo ngành vật lý, hiện là phó giáo sư tiến sĩ giảng dạy và nghiên cứu tại Pháp.[7]