Nhót bắc bộ

Elaeagnus tonkinensis
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
Ngành (divisio)Magnoliophyta
Lớp (class)Magnoliopsida
Bộ (ordo)Rosales
Họ (familia)Elaeagnaceae
Chi (genus)Elaeagnus
Loài (species)E. tonkinensis
Danh pháp hai phần
Elaeagnus tonkinensis
Servettaz
Danh pháp đồng nghĩa[1]
  • Elaeagnus tonkinensis var. grandifolia Lecomte
  • Elaeagnus tonkinensis var. longispicata Lecomte

Nhót Bắc Bộ (danh pháp hai phần: Elaeagnus tonkinensis) là loài thực vật có hoa thuộc họ Nhót được Servettaz mô tả lần đầu năm 1908.[1] Đây là loài đặc hữu của miền Bắc Việt Nam, đã gặp ở Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình[2].

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Cây bụi có cành trườn, mọc rải rác ven rừng hay chân núi đá vôi. Cây bụi có cành trườn, có thể dài đến 7 m, thường có gai. Hoa, rễ và lá có thể dùng làm thuốc[2]. Toàn bộ thân cây, mặt sau lá và quả có một lớp vảy trắng hình tròn rất nhỏ xếp sát nhau. Lớp vảy này thường bám dày và chắc khi quả còn non và khi quả càng già lớp vảy càng mỏng, dễ bong khi bị chà xát.

Quả nhót có hình bầu dục, ngoài mặt có nhiều vảy, tiếp đến là lớp thịt, phía trong cùng có một hạch cứng (còn gọi là hạt), khi chín quả có màu đỏ trông rất bắt mắt. Nhót có thể ăn được cả khi xanh và khi chín; Tại miền Bắc nước ta, Nhót thường được khai thác nhiều khi còn xanh để ăn trực tiếp kèm rau Bắp cải, lá Tỏi tươi, Gừng, rau Mùi và chấm loại gia vị được làm từ Muối tinh, ớt bột, mì chính, đường cát. Ngoài ra cũng có thể trộn cùng một số loại gia vị khác làm thành nộm, gỏi cá... Có hai loại Nhót cho hai loại quả chua và ngọt; nhưng hầu hết Nhót đều có đặc tính là chua khi còn xanh và ngọt khi đã chín đỏ. Khi ăn phải chú ý rửa sạch phần vảy bên ngoài nếu không rất dễ bị viêm họng do vảy nhót bám vào.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b The Plant List (2013). Elaeagnus tonkinensis. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2016.
  2. ^ Nguyễn Tiến Bân (chủ biên) (2003). Danh lục các loài thực vật Việt Nam. Tập III. Hà Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp. tr. 12.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Tư liệu liên quan tới Elaeagnus tonkinensis tại Wikimedia Commons


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Yui (結ゆい) là con gái thứ tám của thủ lĩnh làng Đá và là vợ của Gabimaru.
Rung chấn có phải lựa chọn duy nhất của Eren Jeager hay không?
Rung chấn có phải lựa chọn duy nhất của Eren Jeager hay không?
Kể từ ngày Eren Jeager của Tân Đế chế Eldia tuyên chiến với cả thế giới, anh đã vấp phải làn sóng phản đối và chỉ trích không thương tiếc
Chiều cao của các nhân vật trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Chiều cao của các nhân vật trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Thực sự mà nói, Rimuru lẫn Millim đều là những nấm lùn chính hiệu, có điều trên anime lẫn manga nhiều khi không thể hiện được điều này.
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
Trinity in Tempest mang đến cho độc giả những pha hành động đầy kịch tính, những môi trường phong phú và đa dạng, cùng với những tình huống hài hước và lôi cuốn