Ong nội | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Arthropoda |
Lớp (class) | Insecta |
Bộ (ordo) | Hymenoptera |
Phân bộ (subordo) | Apocrita |
Liên họ (superfamilia) | Apoidea |
Họ (familia) | Apidae |
Phân họ (subfamilia) | Apinae |
Tông (tribus) | Apini |
Chi (genus) | Apis |
Loài (species) | A. cerana |
Phân loài (subspecies) | A. c. indica |
Danh pháp ba phần | |
Apis cerana indica Fabricius |
Ong nội hay ong nội địa phương (Danh pháp khoa học: Apis cerana indica)[1] là một phân loài của loài ong châu Á (Apis cerana), ở Việt Nam gọi là ong nội địa, cùng với phân loài ong nội Đồng Văn (Apis cerana cerana) ở miền Bắc[2].
Chúng phát triển mạnh ở Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan. Ong được nuôi lấy mật ong. Ở Việt Nam, vùng trung du miền núi là quê hương của loài ong nội địa. Hiện nay giống ong này đang bị giống ong Ý là loài ngoại lai xâm hại cạnh tranh quyết liệt vì chúng có năng suất cao hơn[3] và thị trường lại chuộng mật ngoại hơn[4].
Nhìn chung, giống ong nội năng suất mật rất thấp, một vòng quay 20 cầu ong chỉ được 1,2 kg mật[5], năng suất và thu nhập của chúng thấp hơn 5 lần so với ong ngoại[6], Trung bình, giống ong nội cho khối lượng 36 kg mật/đàn/năm[4]. Tuy vậy, đàn ong nội địa rất chăm chỉ, có thể tận dụng hết thức ăn ở gần[7] và chúng chịu rét giỏi hơn ong ngoại[8].