Paracheilinus bellae

Paracheilinus bellae
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Paracheilinus
Loài (species)P. bellae
Danh pháp hai phần
Paracheilinus bellae
Randall, 1988

Paracheilinus bellae là một loài cá biển thuộc chi Paracheilinus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1988.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh bellae được đặt theo tên của nhà sinh học biển Lori Jane Bell, vợ của nhà sinh học rạn san hô Patrick L. Colin, sau này là Đồng giám đốc, Quản lý và Nhà khoa học Nghiên cứu, Quỹ Nghiên cứu Rạn san hô (Palau), cũng là người đã giúp thu thập mẫu định danh của loài này.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

P. bellae có phân bố giới hạn ở các đảo vùng Micronesia, bao gồm quốc đảo Palau, hai nhóm đảo YapChuuk (Liên bang Micronesia), Saipan (quần đảo Mariana), đảo Kwajalein (quần đảo Marshall). Một ghi nhận của P. bellae ngoài vùng Micronesia là tại đảo Iriomote-jima của Nhật Bản.[3]

P. bellae sống trên các thảm tảo có lẫn đá vụn ở độ sâu khoảng từ 8–31 m.[1]

Chiều dài tổng lớn nhất được ghi nhận ở P. bellae là 6 cm.[4]

Cá đực có màu phớt xanh lam đến tím nhạt với các vệt sọc vàng đến đỏ ở hai bên thân. Đầu có các vệt sọc màu xanh lam và vàng tươi, đặc biệt có sọc xanh lam dọc theo gốc vây lưng. Vây lưng có màu trắng phớt xanh lục, có khoảng 3–6 tia sợi vươn dài. Vây hậu môn có màu đỏ tía với viền màu xanh da trời. Vây đuôi có hai thùy thon dài màu đỏ sẫm và phần gốc giữa màu xanh lam. Vây bụng màu đỏ tía với viền trước hơi xanh.

Số gai vây lưng: 9; Số tia vây lưng: 11; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây hậu môn: 9; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 5.[4]

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

P. bellae được xếp vào phức hợp loài Paracheilinus filamentosus, dựa trên đặc điểm chung là có nhiều tia vây lưng dạng sợi vươn dài, vây đuôi lõm sâu hình lưỡi liềm và hoa văn sọc trên cơ thể (mặc dù chưa thể lấy để phân tích gen).[3]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Liu, M. & To, A. (2010). Paracheilinus bellae. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187765A8625125. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187765A8625125.en. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2024.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2023). “Order Labriformes: Family Labridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ a b Allen, Gerald R.; Erdmann, Mark V.; Yusmalinda, Ni Luh A. (2016). “Review of the Indo-Pacific Flasherwrasses of the genus Paracheilinus (Perciformes: Labridae), with descriptions of three new species”. Journal of the Ocean Science Foundation. 19: 18–90. doi:10.5281/zenodo.46267.
  4. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Paracheilinus bellae trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Vị trí chuông để mở MAP ẩn ở Hắc Toàn Phong - Black Myth: Wukong
Vị trí chuông để mở MAP ẩn ở Hắc Toàn Phong - Black Myth: Wukong
Một trong những câu đố đầu tiên bọn m sẽ gặp phải liên quan đến việc tìm ba chiếc chuông nằm rải rác xung quanh Hắc Toàn Phong.
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts, gián điệp do "Nazarick cộng" cài vào.
Nhân vật Kugisaki Nobara - Jujutsu Kaisen
Nhân vật Kugisaki Nobara - Jujutsu Kaisen
Kugisaki Nobara (釘くぎ崎さき野の薔ば薇ら Kugisaki Nobara?, Đanh Kì Dã Tường Vi) là nhân vật chính thứ ba (từ gốc: tritagonist) của bộ truyện Jujutsu Kaisen
Giới thiệu Oshi no ko - Bị kẻ lạ mặt đâm chớt, tôi tái sinh thành con trai idol
Giới thiệu Oshi no ko - Bị kẻ lạ mặt đâm chớt, tôi tái sinh thành con trai idol
Ai sinh đôi một trai một gái xinh đẹp rạng ngời, đặt tên con là Hoshino Aquamarine (hay gọi tắt là Aqua cho gọn) và Hoshino Ruby. Goro, may mắn thay (hoặc không may mắn lắm), lại được tái sinh trong hình hài bé trai Aqua