Paracheilinus

Paracheilinus
P. paineorum
P. cyaneus
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Paracheilinus
P. Fourmanoir, 1955
Loài điển hình
Paracheilinus octotaenia[1]
Fourmanoir, 1955
Các loài
21 loài, xem trong bài

Paracheilinus là một chi cá biển thuộc họ Cá bàng chài. Chi này được lập bởi Fourmanoir vào năm 1955.

Trong tiếng Anh, tên thường gọi chung cho các loài trong chi này là flasher wrasses, do cá đực thể hiệnmàn tán tỉnh bằng cách chuyển sang kiểu hình hoa văn lóe sáng như đèn neon và căng rộng các vây đầy màu sắc.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền tố pará (παρά trong tiếng Hy Lạp cổ đại, “tương tự”) trong tên chi hàm ý đề cập đến vẻ ngoài của chi này tương đồng với Cheilinus, có gai vây hậu môn thứ hai ngắn hơn thứ ba, và Pseudocheilinus, có răng nanh cong ngược ra ngoài.

Mô tả chung

[sửa | sửa mã nguồn]

Cá đực của Paracheilinus đều có màu sắc sặc sỡ, đặc biệt là khi chúng bước vào giai đoạn giao phối. Ở phức hợp P. filamentosus, cá đực có nhiều tia sợi vươn dài trên vây lưng (luôn là 4 trở lên) với vây đuôi xẻ thùy hình lưỡi liềm. Cá cái nhìn chung có các tông màu đỏ cam, sọc trên cơ thể có màu đỏ.

Paracheilinus thuộc loại bàng chài có kích thước khá nhỏ, với chiều dài chuẩn ghi nhận được thường dưới 7 cm (riêng P. octotaenia lên đến 9 cm, là loài Paracheilinus lớn nhất).[2]

Số gai vây lưng: 9; Số tia vây lưng: 11; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây hậu môn: 9; Số tia vây ngực: 14; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 5.

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Paracheilinus là những loài lưỡng tính tiền nữ (những cá thể từ lúc nở ra thường là cá cái, đến thời điểm nào đó thì chúng sẽ phát triển thành cá đực tới cuối đời) như đa số những loài bàng chài trong họ. Cá đực trưởng thành (đã biến đổi giới tính) luôn lớn hơn và có màu sắc sặc sỡ. Chúng thường sống thành hậu cung gồm nhiều cá cái trong đàn.

Hoạt động tán tỉnh thường bắt đầu khoảng từ 1 đến 2 tiếng trước khi mặt trời lặn. Lúc này, kiểu hình neon trên cá đực sẽ xuất hiện, và các vây của chúng sẽ căng rộng. Măc dù kiểu hình này chỉ xuất hiện rõ ngay trước khi hoàng hôn, ở vài loài vẫn được nhìn thấy trong suốt cả ngày, đặc biệt là khi có sự cạnh tranh cùng loài giữa hai con đực.[2]

Hoạt động giao phối thưa dần sau khi mặt trời lặn, các cá thể bơi chậm rãi hoặc lơ lửng gần đáy biển, và khi màn đêm buông xuống, chúng ẩn mình vào kẽ, hốc hở trên mỏm san hô hoặc đá tảng.

Các loài

[sửa | sửa mã nguồn]

Có tất cả 21 loài được công nhận trong chi này, bao gồm:

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Paracheilinus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2024.
  2. ^ a b c d e Allen, Gerald R.; Erdmann, Mark V.; Yusmalinda, Ni Luh A. (2016). “Review of the Indo-Pacific Flasherwrasses of the genus Paracheilinus (Perciformes: Labridae), with descriptions of three new species”. Journal of the Ocean Science Foundation. 19: 18–90. doi:10.5281/zenodo.46267.
  3. ^ Tea, Yi-Kai; Walsh, Fenton (2023). “Review of Australian Species of Paracheilinus Fourmanoir (Teleostei: Labridae), with Description of a New Species from the Great Barrier Reef and Coral Sea” (PDF). Ichthyology & Herpetology. 111 (3): 397–415. doi:10.1643/i2023019. ISSN 2766-1512.
  4. ^ Allen, G.; Erdmann, M. (2008). Paracheilinus nursalim, a new species of flasher wrasse (Perciformes: Labridae) from the Bird's Head Peninsula of western New Guinea with a key to the species of Paracheilinus (PDF). aqua, International Journal of Ichthyology. 13 (3–4): 179–188. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2024.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan