Pentapodus paradiseus

Pentapodus paradiseus
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Acanthuriformes
Họ: Nemipteridae
Chi: Pentapodus
Loài:
P. paradiseus
Danh pháp hai phần
Pentapodus paradiseus
(Günther, 1859)
Các đồng nghĩa
  • Labrus iris Richardson & Solander, 1843
  • Pentapus paradiseus Günther, 1859
  • Dentex filifer Castelnau, 1875

Pentapodus paradiseus là một loài cá biển thuộc chi Pentapodus trong họ Cá lượng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1859.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Không rõ được nguồn gốc của từ nguyên, hàm ý tên gọi có lẽ đề cập đến tia vây dài ở thùy đuôi trên, giống với lông đuôi dài của chim thiên đường Paradisaea.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

P. paradiseus được ghi nhận ở ngoài khơi Papua New Guinea, quần đảo Solomon, và từ vịnh Carpentaria dọc theo bờ đông bắc Úc. Những ghi nhận ngoài khu vực này nhiều khả năng là xác định nhầm với loài  Pentapodus setosus.[1]

P. paradiseus trưởng thành sống trên nền đáy bùn cát gần các rạn san hôám tiêu, cá con chỉ xuất hiện ở khu vực nhiều đá vụn, cũng ưa sống ở vùng nước có thực vật thủy sinhtảo phát triển, độ sâu tìm thấy chúng trong khoảng 10–70 m.[1]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở P. paradiseus là 30 cm.[3] Loài này có màu nâu nhạt, trắng hơn ở bụng. Có 3 sọc xanh lam ngang mõm: sọc thứ nhất nối hai mắt phía sau lỗ mũi, sọc thứ hai ở phía trước lỗ mũi, sọc thứ ba từ mắt vòng qua chóp mõm. Một sọc xanh óng dọc theo gốc vây lưng, một sọc vàng cam từ sau mắt đến gốc vây ngực, và một sọc vàng từ giữa môi trên từ dưới mắt xuống dưới vây ngực. Chóp của thùy đuôi trên vươn dài thành sợi. Cá con cũng có sọc xanh óng dọc lưng, với một sọc đen dọc hai bên lườn, nằm giữa một sọc vàng phía trên và một sọc trắng phía dưới.[4]

Các sọc trên đầu và thân có tính phản quang. Các sọc phản quang này chứa một lớp dày đặc các tế bào iridophore phản chiếu màu sắc. Các bước sóng phản xạ bởi các sọc này có thể thay đổi từ xanh lam sang đỏ trong 0,25 giây.[5]

Số gai vây lưng: 10; Số tia vây lưng: 9; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây hậu môn: 7; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 5.[3]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của P. paradiseus là cá nhỏ, giáp xácgiun nhiều tơ.[6]

Sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

P. paradiseus là một trong số những sản lượng không mong muốn (bycatch) bị loại bỏ trên tàu đánh bắt tôm ở phía bắc rạn san hô Great Barrier, nhưng đôi khi cũng được bán trong các chợ cá địa phương ở bờ đông Úc, chủ yếu là đánh bắt thủ công. Loài này cũng là mục tiêu của những người câu cá giải trí ở bang Queensland, thường được sử dụng làm cá mồi.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d Russell, B. (2022). Pentapodus paradiseus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2022: e.T162925305A162925340. doi:10.2305/IUCN.UK.2022-2.RLTS.T162925305A162925340.en. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2025.
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2024). “Order Acanthuriformes (part 6)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Pentapodus paradiseus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  4. ^ Bray, D. J. (2020). “Paradise Threadfin Bream, Pentapodus paradiseus (Günther 1859)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2025.
  5. ^ Mäthger, L. M.; Land, M. F.; Siebeck, U. E.; Marshall, N. J. (2003). “Rapid colour changes in multilayer reflecting stripes in the paradise whiptail, Pentapodus paradiseus”. Journal of Experimental Biology. 206 (20): 3607–3613. doi:10.1242/jeb.00599. ISSN 0022-0949. PMID 12966052.
  6. ^ Barry C. Russell (2001). “Nemipteridae”. Trong Kent E. Carpenter; Volker H. Niem (biên tập). The Living Marine Resources of the Western Central Pacific Volume 5: Bony fishes part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO. tr. 3085. ISBN 92-5-104587-9.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
Trinity in Tempest mang đến cho độc giả những pha hành động đầy kịch tính, những môi trường phong phú và đa dạng, cùng với những tình huống hài hước và lôi cuốn
Âm nhạc có giúp chúng ta tăng cường hiệu suất công việc?
Âm nhạc có giúp chúng ta tăng cường hiệu suất công việc?
Câu trả lời là có và không. Những giai điệu phù hợp sẽ giúp chúng ta vượt qua sự nhàm chán của công việc, duy trì sự hứng khởi, sáng tạo và bền bỉ
Nhân vật Manabu Horikita - Class room of the Elite
Nhân vật Manabu Horikita - Class room of the Elite
Manabu Horikita (堀ほり北きた 学まなぶ, Horikita Manabu) là một học sinh của Lớp 3-A và là cựu Hội trưởng Hội học sinh
Hướng dẫn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma - Genshin Impact
Hướng dẫn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma - Genshin Impact
trong bài viết dưới đây mình sẽ hướng các bạn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma