Pháp luật quốc tế về quyền con người (tiếng Anh: International Human Rights Law) là tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế do các quốc gia và các tổ chức quốc tế thỏa thuận xây dựng, trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế trong việc tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người và các tự do cơ bản của con người trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, ở cấp độ khu vực và toàn cầu.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, một số tổ chức quốc tế được thành lập đã thông qua một số điều ước quốc tế nhằm bảo vệ các cộng đồng thiểu số, xóa bỏ chế độ nô lệ, cải thiện tình trạng ốm đau và thương xong trong các đợt xung đột vũ trang, bảo vệ trẻ em trong hoàn cảnh chiến tranh và thoát khỏi sự bóc lột (lao động, kinh tế, tình dục), đồng thời đưa ra các chuẩn mực quốc tế về lao động trẻ em. Năm 1924, Hội Quốc Liên thông qua Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em – văn kiện pháp lý đầu tiên đưa ra chuẩn mực quốc tế về các quyền con người của trẻ em.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) kết thúc. Những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm chấm rứt hành động tàn bạo và các hành động diệt chủng của Chủ nghĩa phát xít, nhu cầu liên kết lại để bảo vệ hòa bình và nhân phẩm con người đã dẫn tới sự ra đời của Liên Hợp Quốc – với cam kết bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người.
Từ đây, vấn đề tôn trọng và bảo vệ các quyền tư do cơ bản của cong người đã chính thức đặt trên nền tảng của Hiến chương Liên hợp quốc và luật hiện đại, mở đầu cho sự hình thành ngành luật quốc tế về quyền con người.
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (UDHR) được Đại hội đồng Liên hiện quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 – là thỏa thuận pháp lý đầu tiên về quyền con người, được các quốc gia cùng nhau xây dựng, dựa trên việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và bất di, bất dịch của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.
Pháp luật quốc tế về nhân quyền bên cạnh có những đặc điểm chung của Pháp luật quốc tế, còn có những đặc điểm riêng như sau:
Không tập trung điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau mà tập trung chủ yếu vào điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia (nhà nước) và các cá nhân, các nhóm người yếu thế trong xã hội.
Không phải là công cụ trực tiếp bảo đảm thực thi quyền con người trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, trừ trường hợp thừa nhận hiệu lực trực tiếp.
Điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá nhân, các nhóm người yếu thế trong mối quan hệ với quốc gia.
Quy định giới hạn và tạm đình chỉ quyền bất lợi.
Quy định trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền con người.
Các nhóm xã hội dễ bị tổn thương (vulnerable groups) là khái niệm dùng để chỉ các cộng đồng, nhóm người có vị thế về chính trị, kinh tế hoặc xã hội thấp hơn đa số, khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm quyền. Bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác.
Các nhóm người dễ bị tổn thương gồm: Phụ nữ, Trẻ em, Người tị nạn, Người bị mất nơi ở trong nước (VD: do việc xây dựng các công trình thủy lợi), Thanh niên, Người không có quốc tịch (những người từ CPC về), Người thiểu số, Người bản địa, Người lao động di cư, Người khuyết tật, Người cao tuổi, Người có HIV/AIDS...
Bên cạnh các văn kiện trên, các công ước, tuyên bố về quyền con người và liên quan đến quyền con người được Liên hiệp quốc thông quan từ khi thành lập (1945) đến nay như sau:
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
Luật điều ước:
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR)
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (ICESCR)
Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc(CERD)
Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục khác (CAT)
Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)
Công ước quyền trẻ em (CRC)
Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di cư và thành viên gia đình họ (CMW)
Công ước về các quyền của người khuyết tật
Công ước quốc tế về bảo vệ những người bị cưỡng bức mất tích
Tuyên bố:
Tuyên bố Bắc kinh và cương lĩnh hành động
Tuyên bố về bạo lực với phụ nữ
Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động, 1993. Tuyên bố này được Liên Hợp Quốc thông qua. Bản tiếng Việt có thể download ở link.
Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, 2000
Nguyên tắc
Hành đồng để chống lại sự miễn trừ
Quyền được có biện pháp khắc phục và đền bù
Các công ước của ILO
Công ước ILO số 100 (về trả lương công bằng)
Công ước ILO số 111 ( Công ước về phân biệt đối xử (trong việc làm và nghề nghiệp)
Các văn bản khác:
Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 về huỷ bỏ án tử hình, 1989
Công ước chống phân biệt đối xử trong giáo dục, 1960
Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, 2000.
Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em về việc lôi cuốn trẻ em tham gia xung đột vũ trang, 2000.
Công ước về cấm và hành động ngay để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999
Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của mọi người lao động di trú và các thành viên của gia đình họ, 1990 Bản tiếng Việt có thể xem ở link
Nghị định thư về chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, 2000
Công ước về Nô lệ, 1926
Nghị định thư sửa đổi Công ước về Nô lệ 1926
Công ước bổ sung về xoá bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ, các thể chế và tập tục khác tương tự chế độ nô lệ, 1956
Công ước về trấn áp việc buôn bán người và bóc lột mại dâm người khác, 1949
Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, 2000.
Công ước về vị thế của người không quốc tịch, 1954
Công ước về vị thế của người tị nạn, 1951
Nghị định thư của Công ước về vị thế của người tị nạn, 1967
Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội ác tra tấn, tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại
Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạp hay hạ thấp nhân phẩm, 1984
Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, 1948
Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng với tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại, 1968
Quy chế Roma về Toà án Hình sự quốc tế, 1998
Các Quy tắc chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân, 1955
Các nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù nhân, 1990
Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988
Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do
Các bảo đảm nhằm bảo vệ quyền của những người đang phải đối mặt với án tử hình, 1984
Các quy tắc hành động của cán bộ thi hành pháp luật, 1979
Các nguyên tắc cơ bản về sử dụng vũ lực và súng của cán bộ thi hành pháp luật, 1990
Các Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về các biện pháp không giam giữ (Các Quy tắc Tokyo), 1990
Các nguyên tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp với người chưa thành niên (Các Quy tắc Bắc Kinh), 1985
Các hướng dẫn về làm việc với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự, 1971
Các hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (Các hướng dẫn Ri-át), 1990
Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của toà án, 1985
Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư, 1990
Các hướng dẫn về vai trò của công tố viên, 1990
Các nguyên tắc của Liên Hợp Quốc về người cao tuổi, 1991
Tuyên bố Cam kết về HIV/AIDS, 2001
Các Hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người, 1996
Tuyên bố về quyền của những người không phải công dân của quốc gia nơi họ đang sinh sống, 1985
Tuyên bố về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, 1992.
Điều 28: Social order •Điều 29.1: Social responsibility •Điều 29.2: Limitations of human rights •Điều 29.3: The supremacy of the purposes và principles of the United Nations Điều 30: Nothing in this Declaration may be interpreted as implying for any State, group or person any right to engage in any activity or to perform any act aimed at the destruction of any of the rights và freedoms set forth herein.
Được xem là một trong những siêu phẩm kinh dị khoa học viễn tưởng và giành được vô số giải thưởng của thế giới M-A, Parasyte chủ yếu nhắm tới độc giả là nam giới trẻ và trưởng thành