Poupée de cire, poupée de son

"Poupée de cire, poupée de son"
Đĩa đơn của France Gall
Phát hành1965
Thể loạiYé-yé
Sáng tácSerge Gainsbourg
Luxembourg "Poupée de cire, poupée de son"
Eurovision Song Contest 1965
Quốc giaLuxembourg
Nghệ sĩIsabelle Gall
AsFrance Gall
Ngôn ngữtiếng Pháp
Soạn nhạcSerge Gainsbourg
Viết lờiSerge Gainsbourg
Nhạc trưởngAlain Goraguer
Thành tích tại vòng chung kết
Kết quả chung cuộc1st
Điểm chung cuộc32
Thứ tự xuất hiện
◄ Dès que le printemps revient (1964)   
Ce soir je t'attendais (1966) ►

Poupée de cire, poupée de son (tạm dịch: "búp bê bằng sáp, búp bê nhồi bông") là bản nhạc đã thắng giải Eurovision Song Contest 1965. Nó đã được trình bày bởi ca sĩ Pháp France Gall, đại diện cho Luxembourg. Bản nhạc này đã được vinh danh là một trong 14 bài Eurovision hay nhất trong buổi ăn mừng 50 năm Eurovision Song Contest mà đã được tổ chức vào tháng 10 năm 2005. Bài này được biết đến rộng rãi trong tiếng Việt qua nhan đề "Búp bê không tình yêu" do nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng đặt lời.

Ngày hôm sau sau khi đoạt giải, đĩa đơn của bài này đã bán được 16.000 ngàn bản ở Pháp;[1] bốn tháng sau đó nó đã bán được hơn 500.000 đĩa.[2]

Nội dung lời nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Trọng tâm bản nhạc nói về người ca sĩ mà tự xem mình như là một búp bê bằng sáp (poupée de cire), đồ chơi nhồi bông (poupée de son). Trái tim của cô được thể hiện qua những bài hát của mình; và nhìn cuộc sống qua qua cặp mắt kính hồng của những bài ca này. Cô ta tự hỏi mình khá hơn hay là tệ hơn một người mẫu quần áo?

Những đĩa nhạc là những tấm gương phản ảnh cô ta mà mọi người có thể nhìn thấy. Qua việc thâu đĩa người ca sĩ có cảm tưởng là mình đã bị phân chia ra làm ngàn mảnh âm thanh và được reo rắc ra mọi nơi.

Và các khán thính giả cũng chỉ là búp bê nhồi bông (poupées de chiffon) cười giỡn, nhảy múa theo điệu nhạc, và chấp nhận mình bị lôi cuốn vì bất cứ lý do gì.

Tuy nhiên tình yêu không chỉ trong các bài ca, và ca sĩ lại tự hỏi, hát về tình yêu thì có ích lợi gì khi chính cô không biết gì về con trai cả.[3]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Billboard Magazine, April 1965. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2012.
  2. ^ Billboard Magazine, September 1965. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2012.
  3. ^ Lyric summary largely based on the English translations of the lyrics by Alex Chabot Lưu trữ 2011-07-19 tại Wayback Machine and by Morgan Trouillet.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền nhiệm:
"Non ho l'età" bởi Gigliola Cinquetti
Người đoạt giải Eurovision Song Contest
Eurovision Song Contest 1965
Kế nhiệm:
"Merci, Chérie" bởi Udo Jürgens
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Thiên Nghịch Mâu - chú cụ đặc cấp phá bỏ mọi đau khổ?
Thiên Nghịch Mâu - chú cụ đặc cấp phá bỏ mọi đau khổ?
Thiên Nghịch Mâu lần đầu tiên xuất hiện tại chương 71, thuộc sở hữu của Fushiguro Touji trong nhiệm vụ tiêu diệt Tinh Tương Thể
Tại sao một số người luôn muốn lan truyền sự căm ghét?
Tại sao một số người luôn muốn lan truyền sự căm ghét?
Căm ghét là một loại cảm xúc khi chúng ta cực kỳ không thích ai hoặc cái gì đó
Làm chủ thuật toán đồ thị - Graph: cẩm nang giải các dạng bài đồ thị trong DSA
Làm chủ thuật toán đồ thị - Graph: cẩm nang giải các dạng bài đồ thị trong DSA
Bạn có gặp khó khăn khi giải quyết các bài toán về đồ thị trong hành trình học Cấu trúc dữ liệu và thuật toán (DSA)?
Nhân vật Epsilon: the Precision - The Eminence In Shadow
Nhân vật Epsilon: the Precision - The Eminence In Shadow
Epsilon (イプシロン, Ipushiron?) (Έψιλον) là thành viên thứ năm của Shadow Garden, là một trong "Seven Shadows" ban đầu.