Pseudodax moluccanus

Pseudodax moluccanus
Cá trưởng thành
Cá con
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Pseudodax
Bleeker, 1861
Loài (species)P. moluccanus
Danh pháp hai phần
Pseudodax moluccanus
(Valenciennes, 1840)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Odax moluccanus Valenciennes, 1840

Pseudodax moluccanus là loài cá biển duy nhất thuộc chi Pseudodax trong họ Cá bàng chài. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1840.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền tố pseudo bắt nguồn từ tiếng Latinh có nghĩa là "sai, khác", nên từ định danh của chi có thể tạm dịch là "giống với chi Odax", hàm ý đề cập đến sự khác biệt của loài này so với những loài thuộc chi Odax (một chi thuộc bộ Cá bàng chài), dù trước đây chúng được xếp vào chi Odax[2].

Hậu tố anus trong tiếng Latinh có nghĩa là "thuộc về", nên từ định danh của loài tạm dịch là "thuộc về Molucca", hàm ý đề cập đến việc mẫu định danh của loài này được thu thập tại quần đảo Maluku (Indonesia)[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

P. moluccanus có phạm vi phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Ở Ấn Độ Dương, từ Biển Đỏ và bờ biển phía nam bán đảo Ả Rập, loài này được ghi nhận dọc theo bờ biển Đông Phi, bao gồm Madagascar và các đảo quốc, bãi ngầm, quần đảo lân cận; từ vùng biển phía nam Ấn Độ, phạm vi của loài này trải dài về phía nam đến Sri Lanka, Maldives, Chagos, xa hơn nữa là đến quần đảo Cocos (Keeling)đảo Giáng Sinh (Úc), cũng như các rạn san hô ở ngoài khơi Tây Úc; từ biển Andaman, P. moluccanus xuất hiện trên hầu hết vùng biển các nước Đông Nam Á; ngược lên phía bắc đến miền nam Nhật Bản; về phía nam đến đảo Lord Howe và bờ biển bang New South Wales (Úc); trải rộng về phía đông đến hầu hết các đảo quốc, quần đảo thuộc châu Đại Dương[1].

P. moluccanus sống gần các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 60 m, nhưng thường được quan sát ở độ sâu khoảng 40 m trở lại[3].

P. moluccanus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 30 cm[3]. Cá thể trưởng thành có màu nâu xám với các đốm màu nâu đỏ trên mỗi vảy. Gáy và lưng có màu đỏ cam. Môi trên màu vàng, có một vệt màu xanh lam ở băng xuống dưới má. Răng màu xanh lam. Vây đuôi bo tròn, màu đen viền xanh lam, với một dải màu vàng nhạt bao quanh cuống đuôi. Vây lưng có màu cam sáng; vây ngực màu vàng; các vây còn lại tiệp màu với thân. Trừ vây ngực, các vây đều có viền màu xanh óng. Cá con có màu nâu sẫm với 2 dải sọc màu xanh óng (trên lưng và dưới bụng)[4][5][6][7].

Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 14; Số tia vây ở vây ngực: 15[4][5].

Sinh thái và hành vi

[sửa | sửa mã nguồn]

P. moluccanus trưởng thành sống đơn độc, ăn tảo và các loài thủy sinh không xương sống cỡ nhỏ; cá con ăn ký sinh bám trên cơ thể những loài sinh vật khác[3].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Sadovy, Y.; Pollard, D.A.; Rocha, L.A. (2010). Pseudodax moluccanus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187713A8608971. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187713A8608971.en. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ a b C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (i-x)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2021.
  3. ^ a b c Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2019). Pseudodax moluccanus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2019.
  4. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1997). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 331. ISBN 978-0824818951.
  5. ^ a b K. E. Carpenter; V. H. Niem biên tập (2001). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 6. Bony fishes part 4 (Labridae to Latimeriidae), estuarine crocodiles, sea turtles, sea snakes and marine mammals (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3456. ISBN 978-9251045893.
  6. ^ Dianne J. Bray. “Chiseltooth Wrasse, Pseudodax moluccanus (Valenciennes 1840)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2021.
  7. ^ Pseudodax moluccanus Labridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Cùng nhìn lại kế hoạch mà Kenjaku đã mưu tính suốt cả nghìn năm
Cùng nhìn lại kế hoạch mà Kenjaku đã mưu tính suốt cả nghìn năm
Cho đến hiện tại Kenjaku đang từng bước hoàn thiện dần dần kế hoạch của mình. Cùng nhìn lại kế hoạch mà hắn đã lên mưu kế thực hiện trong suốt cả thiên niên kỉ qua nhé.
Tổng quan nguồn gốc và thế giới Goblin Slayer
Tổng quan nguồn gốc và thế giới Goblin Slayer
Khi Truth và Illusion tạo ra Goblin Slayer, số skill points của GS bình thường, không trội cũng không kém, chỉ số Vitality (sức khỏe) tốt, không bệnh tật, không di chứng, hay có vấn đề về sức khỏe
Nhân vật Seira J. Loyard trong Noblesse
Nhân vật Seira J. Loyard trong Noblesse
Seira J. Loyard (Kor. 세이라 J 로이아드) là một Quý tộc và là một trong tám Tộc Trưởng của Lukedonia. Cô là một trong những quý tộc của gia đình Frankenstein và là học sinh của trường trung học Ye Ran. Cô ấy cũng là thành viên của RK-5, người cuối cùng tham gia.
Dead Poets Society (1989): Bức thư về lý tưởng sống cho thế hệ trẻ
Dead Poets Society (1989): Bức thư về lý tưởng sống cho thế hệ trẻ
Là bộ phim tiêu biểu của Hollywood mang đề tài giáo dục. Dead Poets Society (hay còn được biết đến là Hội Cố Thi Nhân) đến với mình vào một thời điểm vô cùng đặc biệt