Pseudolabrus luculentus

Pseudolabrus luculentus
Cá đực
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Pseudolabrus
Loài (species)P. luculentus
Danh pháp hai phần
Pseudolabrus luculentus
(Richardson, 1848)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Labrus luculentus Richardson, 1848

Pseudolabrus luculentus là một loài cá biển thuộc chi Pseudolabrus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1848.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh luculentus của loài trong tiếng Latinh có nghĩa là "rực rỡ, lộng lẫy", hàm ý đề cập đến màu sắc tươi sáng của loài này[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

P. luculentus có phạm vi phân bố ở Tây Nam Thái Bình Dương. Loài này được ghi nhận dọc theo bờ biển bang New South Wales (Úc), bao gồm các hòn đảo, rạn san hô ở ngoài khơi là rạn san hô Elizabethrạn san hô Middleton, đảo Norfolkđảo Lord Howe, mở rộng phạm vi đến Bắc New Zealandquần đảo Kermadec[1][3].

P. luculentus sống trên các rạn đá ngầm ở độ sâu khoảng từ 10 đến 50 m[1].

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở P. luculentus là 17 cm[3]. Cá cái chuyển đổi giới tính thành cá đực khi đạt chiều dài khoảng 13 cm[2].

Cá cái có màu đỏ da cam hoặc xanh lục nhạt (cá con đang phát triển). Dưới mắt có các vệt sọc trắng. Vảy trên bụng tạo thành các vệt sọc xiên màu trắng. Vây lưng và vây hậu môn của chúng có màu vàng; viền xanh lam ở rìa và dải sọc cận rìa màu đỏ; vây đuôi màu đỏ nhạt; vây ngực và vây bụng trong suốt, phớt đỏ. Cá đực có màu nâu đỏ hoặc đỏ thẫm. Lưng có các vệt đốm trắng xen lẫn các đốm đen. Các vệt sọc trắng trên má tiêu biến khi cá cái chuyển thành cá đực. Vây lưng, hậu môn và vây đuôi tiệp màu với thân; vây lưng và vây hậu môn viền xanh lam ở rìa và dải sọc cận rìa màu đỏ. Vây ngực và vây bụng trong suốt hoặc trong mờ với màu đỏ hoặc xanh lam nhạt[2][4][5].

Hành vi và tập tính

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của P. luculentus chủ yếu là các loài động vật giáp xác nhỏ và cua ẩn sĩ[1]. Hành vi làm vệ sinh cho những loài cá khác ở cá cái và cá con của P. luculentus đã được quan sát ở New Zealand, nhưng chúng ít dựa vào hành vi để kiếm ăn[6].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d D. Pollard; B. Russell; Y. J. Sadovy (2010). Pseudolabrus luculentus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T154701A4610583. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T154701A4610583.en. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ a b c Russell (1988), sđd, tr.28–29
  3. ^ a b Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2020). Pseudolabrus luculentus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2020.
  4. ^ Pseudolabrus luculentus Labridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2021.
  5. ^ Dianne J. Bray. “Luculent Wrasse, Pseudolabrus luculentus (Richardson 1848)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2021.
  6. ^ A. M. Ayling & R. V. Grace (1971). “Cleaning symbiosis among New Zealand fishes”. New Zealand Journal of Marine and Freshwater Research. 5 (2): 205–218. doi:10.1080/00288330.1971.9515377.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)

Trích dẫn

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan