Những người theo chủ nghĩa đế quốc (Imperialists) thì đang tìm cách khôi phục vị thế nữa bá quyền đã mất trong thập kỷ trước;
Những người theo trường phái Slavophilia (Chuộng Sla-vơ) thì thúc đẩy sự tự cô lập của Nga trong phạm vi văn hóa của chính mình.
Trong khi thuyết Đại Tây Dương là hệ tư tưởng thống trị trong những năm đầu tiên của Liên bang Nga mới, nhưng dưới thời Andrei Kozyrev thì chủ thuyết này đã bị chỉ trích vì không bảo vệ được vị thế vượt trội của Nga ở thời Liên Xô trước đây. Việc thăng chức Yevgeny Primkov lên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào năm 1996 đánh dấu sự khởi đầu của một cách tiếp cận mang tính dân tộc chủ nghĩa hơn đối với chính sách đối ngoại.[1]:33–69 Một xu hướng chính khác là Chủ nghĩa Á-Âu (Eurasianism), một trường phái tư tưởng nổi lên vào đầu thế kỷ XX. Những người theo chủ nghĩa Á-Âu khẳng định rằng nước Nga bao gồm các nền văn hóa Slavơ, Thổ Nhĩ Kỳ và văn hóa Châu Á và đánh đồng Chủ nghĩa tự do với chủ nghĩa đế quốcChâu Âu.
Một trong những nhà tư tưởng sớm nhất của chủ nghĩa Á-Âu là nhà sử học người Nga Nikolai Trubetzkoy vốn là người đã tố cáo chủ nghĩa Á-Âu của Sa hoàng Peter I và ủng hộ việc Nga ôm lấy "di sản châu Á của Thành Cát Tư Hãn" để thành lập một quốc gia Á-Âu xuyên lục địa. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Chủ nghĩa Á-Âu đã giành được sự tín nhiệm trong công chúng thông qua các tác phẩm của triết giaAleksandr Dugin và đã trở thành chính sách tư tưởng chính thức dưới chính phủ của Vladimir Putin.[a] Nhiệm kỳ Tổng thống Vladimir Putin kéo dài từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 5 năm 2008 và một lần nữa từ tháng 5 năm 2012 đến nay đã hiện thức hóa điều này, đồng thời, dưới thời Putin, Nga đã tham gia vào một số cuộc xung đột đáng chú ý, bao gồm cả cuộc chiến chống lại các nước láng giềng Ukraina và Gruzia. Ông công nhận nền độc lập của các nước cộng hòa mới bên trong các quốc gia đó.[6][7] Đặc biệt, mối quan hệ với Mỹ đã xấu đi rõ rệt từ năm 2001 đến năm 2022, trong khi mối quan hệ với Liên minh Châu Âu xấu đi đặc biệt kể từ khi Nga sáp nhập Crimea năm 2014 từ Ukraina. Trong một cuộc thăm dò do Trung tâm Levada thực hiện vào năm 2021, 64% công dân Nga xác định Nga là một quốc gia ngoài châu Âu trong khi chỉ có 29% coi Nga là một phần của châu Âu.[8]
^Laurelle, Marlene (2008). Russian Eurasianism: An Ideology of Empire. Gabowitsch, Mischa biên dịch. Baltimore, Maryland 21211: Johns Hopkins University Press. ISBN978-0-8018-9073-4.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
^ abcdefghijkYork, Chris. "Who Are Russia's Allies? A List of Countries Supporting the Kremlin's Invasion of Ukraine." KyivPost, https://www.kyivpost.com/post/13208. Accessed 22 Aug. 2023.
^“Who are Russia's supporters?”. The Economist. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2023. Truy cập 7 tháng 2 năm 2024.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
Ambrosio, Thomas; Vandrovec, Geoffrey (2013). “Mapping the Geopolitics of the Russian Federation: The Federal Assembly Addresses of Putin and Medvedev”. Geopolitics. Routledge. 18 (2): 435–466. doi:10.1080/14650045.2012.717554. S2CID143411779.
Bordachev, Timofei. Europe, Russia and the Liberal World Order (Routledge, 2022), by a senior aide to Putin see online book review
Bowen, Andrew (2017). “Coercive Diplomacy and the Donbas: Explaining Russian Strategy in Eastern Ukraine”. Journal of Strategic Studies. 42 (3–4): 312–343. doi:10.1080/01402390.2017.1413550. S2CID158522112.
Contessi, Nicola (2016). “Prospects for the accommodation of a resurgent Russia”. Trong Paul, T.V. (biên tập). Accommodating Rising Powers. Past, Present and Future. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 268–290. doi:10.1017/CBO9781316460191.013. ISBN9781316460191.
Kapoor, Nivedita. "Russia's Relations in Southeast Asia since 2014: Continuity and Change" (ORF Occasional Paper, 2020) online
Kapoor, Nivedita. "India-Russia ties in a changing world order: In pursuit of a 'Special Strategic Partnership'" (ORF Occasional Paper #2018, 2019) online
Kozyrev, Andrei. The Firebird: The Elusive Fate of Russian Democracy (U of Pittsburgh Press, 2019); primary source. Andrei Kozyrev was Russian foreign minister 1991–1996.
Legvold, Robert biên tập (2007). Russian Foreign Policy in the 21st Century and the Shadow of the Past. Columbia University Press. doi:10.7312/legv14122. ISBN9780231512176.
Lund, Aron. "From cold war to civil war: 75 years of Russian-Syrian relations." (Swedish Institute of International Affairs, 2019) online
Saradzhyan, Simon, and Nabi Abdullaev. "Measuring National Power: Is Putin's Russia in Decline?." Europe-Asia Studies (2020): 1-27. Statistical measures indicate Russia was rising against its Western competitors in 1999–2016 but trailed behind the United States, China and India in absolute national power.
Saul, Norman E. (2014). Historical Dictionary of Russian and Soviet Foreign Policy. Rowman & Littlefield. ISBN978-0-8108-6806-9.
Shen, Zhihua, ed. A Short History of Sino-Soviet Relations, 1917–1991 (Springer Singapore;Palgrave Macmillan, 2020)
Tsygankov, Andrei P. (2013). “The Russia-NATO mistrust: Ethnophobia and the double expansion to contain "the Russian Bear"”. Communist and Post-Communist Studies. 46: 179–188. doi:10.1016/j.postcomstud.2012.12.015.
Vasiliev, Alexey. Russia's Middle East Policy: From Lenin to Putin (Routledge, 2018).
Weiner, Tim. The Folly and the Glory: America, Russia, and Political Warfare 1945–2020 (2020); Pulitzer Prize excerpt
Wohlforth, William, and Vladislav Zubok. "An abiding antagonism: realism, idealism and the mirage of Western-Russian partnership after the Cold War." International Politics (2017) 54#4 pp 405–419.
Cho đến hiện tại Kenjaku đang từng bước hoàn thiện dần dần kế hoạch của mình. Cùng nhìn lại kế hoạch mà hắn đã lên mưu kế thực hiện trong suốt cả thiên niên kỉ qua nhé.
Rien (Từ điển, Bính âm: Lián), còn được gọi là biệt danh Fugen Jōtei (Từ điển, Nghĩa đen: Shangdi Samantabhadra), là một Sennin cấp Tensen, người từng là người cai trị thực sự của Kotaku, tổ tiên của Tensens, và là người lãnh đạo của Lord Tensen.