Rafael Moneo

Rafael Moneo
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
9 tháng 5, 1937
Nơi sinh
Tudela
Giới tínhnam
Quốc tịchTây Ban Nha
Nghề nghiệpkiến trúc sư
Gia đình
Con cái
Belén Moneo
Học sinhJosé Manuel Pérez Latorre
Sự nghiệp nghệ thuật
Đào tạoĐại học Kỹ thuật Madrid, Học viện Hoàng gia Tây Ban Nha ở Rome, Superior Technical School of Architecture of Madrid
Thành viên củaHọc viện Mỹ thuật Hoàng gia San Fernando, Royal Academy of Engineering of Spain, Học viện Mỹ thuật Hoàng gia Thụy Điển, Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ, Học viện Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ, Học viện Kiến trúc, Royal Galician Academy of Fine Arts, Học viện San Luca
Tác phẩmBankinter building, Kursaal convention centre, L'Auditori
Có tác phẩm trongViện Nghệ thuật Chicago, Swedish Centre for Architecture and Design
Giải thưởngHuy chương vàng Hoàng gia, Giải thưởng Pritzker, Princess of Asturias Award for the Arts, Saint George's Cross, Giải Feltrinelli, Rolf Schock Prize in Visual Arts, Giải thưởng Văn hóa thế giới tưởng niệm Takamatsu-no-miya, Rei Jaume I Award, Soane medal, Thành viên Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ
Phần mở rộng của ga Atocha
Phần mở rộng của ga Atocha
Nhà thờ Đức mẹ của các thiên thần, Los Angeles, Mỹ

José Rafael Moneo Vallés (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1937 tại Tudela, Tây Ban Nha) là một kiến trúc sư người Tây Ban Nha. Ông là một kiến trúc sư, nhà lý thuyết kiến trúc và một giáo sư đại học.

Thuở nhỏ Moneo có thích tìm hiểu về triết học thơ ca và ông thực sự không có một khái niệm gì về kiến trúc sư. Tuy nhiên, bố của ông vốn là một kỹ sư công nghiệp đã hướng sự chú ý của ông vào chủ đề này. Năm 1954, Moneo theo học kiến trúc tại Đại học Madrid. Tại đây, ông chịu ảnh hưởng mạnh của giáo sư Leopoldo Torres Balbás, người dạy ông môn lịch sử kiến trúc. Ông cũng làm việc cho kiến trúc sư Francisco Javier Sáenz de Oiza. Sau khi tốt nghiệp năm 1961, Moneo đến Đan Mạch làm việc cho kiến trúc sư Jørn Utzon và tham gia thiết kế công trình nổi tiếng Nhà hát Opera Sydney, Úc. Sau đó, Moneo đã đi khắp bán đảo Scandinavi. Trong thời gian đó, ông đã gặp Alvar AaltoHelsinki, Phần Lan.

Năm 1962, Moneo quay về Tây Ban Nha và ông nhận được một học bổng nhỏ của Viện Hàn lâm Tây Ban Nha tại Rome (Academy of Spain in Rome), Ý trong vòng hai năm. Tại đây ông đã có cơ hội gặp gỡ làm quen với nhiều nhân vật nổi tiếng đương thời như Bruno Zevi, Manfredo Tafuri, Paolo Portoghesi. Năm 1965, Moneo quay lại Tây Ban Nha, dạy học và hoàn thành học vị tiến sĩ tại trường Kiến trúc, Đại học Madrid. Năm 1970, ông chuyển sang làm nghiên cứu về lý thuyết kiến trúc tại trường Kiến trúc Barcelona. Năm 1976, Moneo sang Mỹ làm việc theo học bổng của Học viện Nghiên cứu Kiến trúc và Đô thị New York (Institute for Architecture and Urban Studies of New York City) và trường Kiến trúc của Hiệp hội Cooper (Cooper Union Irwin S. Chanin School of Architecture). Trong thời gian này, ông trở thành giáo sư thỉnh giảng của Đại học Harvard, Đại học PrincetonĐại học Lausanne (Thụy Sĩ). Năm 1985, Moneo được bổ nhiệm làm chủ nhiệm khoa Kiến trúc, Đại học Harvard cho đến đầu những năm 1990.

Theo ban giám khảo giải thưởng Pritzker, kiến trúc của Moneo theo chủ nghĩa chiết trung, lấy cảm hứng từ nhiều nguồn khác nhau. Ông chắt lọc qua sự sáng tạo của mình để tạo cho công trình luôn có các dáng vẻ đa dạng khác nhau, phù hợp với bối cảnh thiết kế.

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số công trình thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Phòng hòa nhạc Barcelona, 1990
  • Bản tàng nghệ thuật hiện đại và kiến trúc, Stockhom, Thụy Điển, 1994
  • Trung tâm văn hóa Don Benito ở Badajoz, 1995
  • Tòa thị chính Murcia, 1995
  • Phòng hòa nhạc và trung tâm văn hóa San Sebastián, 1995
  • Nhà thờ Đức mẹ của các Thiên thần, Los Angeles, Mỹ, 1996

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh mục người nhận giải thưởng Pritzker
Người trước
Ando Tadao
Rafael Moneo Người sau
Sverre Fehn
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu nhân vật Yuri Alpha Overlord
Giới thiệu nhân vật Yuri Alpha Overlord
Yuri Alpha (ユ リ ・ ア ル フ ァ, Yuri ・ α) là đội phó của "Pleiades Six Stars", đội chiến hầu của Lăng mộ vĩ đại Nazarick. Cô được tạo ra bởi Yamaiko, một trong ba thành viên nữ của Ainz Ooal Gown
Vài câu tỏ tình hàng tuyển
Vài câu tỏ tình hàng tuyển
Những lời tỏ tình với đôi chút lãn mạn và một bầu trời yêu thương
Có những chuyện chẳng thể nói ra trong Another Country (1984)
Có những chuyện chẳng thể nói ra trong Another Country (1984)
Bộ phim được chuyển thể từ vở kịch cùng tên của Julian Mitchell về một gián điệp điệp viên hai mang Guy Burgess
Con mèo trong văn hóa lịch sử Việt Nam
Con mèo trong văn hóa lịch sử Việt Nam
Tết là lúc mọi người có những khoảng thời gian quý giá quây quần bên gia đình và cùng nhau tìm lại những giá trị lâu đời của dân tộc