Robert Pattinson

Robert Pattinson
SinhRobert Douglas Thomas Pattinson
13 tháng 5, 1986 (38 tuổi)
London, Anh
Quốc tịchAnh
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động2004–nay
Tác phẩm nổi bậtThe Batman, Twilight, Tenet, The Lighthouse
Chiều cao185 cm (6 ft 1 in)
Bạn đờiSuki Waterhouse (2018–nay)
Con cái1
Cha mẹ
  • Richard Pattinson (cha)
  • Clare Pattinson (mẹ)
Người thânLizzy Pattinson, Victoria Pattinson (chị gái)[1]
Giải thưởngDanh sách

Robert Douglas Thomas Pattinson (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1986) là một diễn viên người Anh. Với việc tham gia đóng vai chính trong cả những phim điện ảnh kinh phí lớn lẫn phim độc lập, Pattinson đã được xếp hạng trong danh sách những diễn viên có thu nhập cao nhất thế giới. Tạp chí Time đã đưa tên anh vào trong danh sách 100 người có tầm ảnh hưởng nhất hành tinh. Anh ngoài ra cũng được giới thiệu trong danh sách Forbes Celebrity 100.

Sau một thời gian hoạt động tại câu lạc bộ nhạc kịch ở London năm 15 tuổi, Pattinson bắt đầu sự nghiệp điện ảnh của mình với vai diễn Cedric Diggory trong phim điện ảnh kỳ ảo Harry Potter và Chiếc cốc lửa (2005). Anh sau đó được công nhận toàn cầu với vai diễn Edward Cullen trong loạt phim The Twilight Saga (2008–2012), với tổng doanh thu đạt hơn 3,3 tỷ USD trên toàn thế giới. Sau khi thủ vai chính trong hai tác phẩm chính kịch lãng mạn Nhớ đến anh (2010) và Water for Elephants (2011), Pattinson nhận được sự hoan nghênh từ giới phê bình cho những vai diễn thuộc dòng phim độc lập như tác phẩm giật gân Cosmopolis (2012) của David Cronenberg, phim điện ảnh The Rover (2014) của David Michôd, phim chính kịch phiêu lưu Thành phố vàng đã mất (2016) của James Gray, tác phẩm hình sự Good Time (2017) của anh em nhà Safdie, phim khoa học viễn tưởng High Life (2018) của Claire Denis và phim kinh dị tâm lý The Lighthouse (2019) của Robert Eggers. Pattinson quay trở lại với dòng phim thị trường bằng vai chính trong tác phẩm khoa học viễn tưởng Tenet (2020) của đạo diễn Christopher Nolan cũng như thủ vai Bruce Wayne / Người Dơi trong phim điện ảnh siêu anh hùng The Batman (2022) của DC Comics do Matt Reeves đạo diễn.

Ngoài việc diễn xuất, Pattinson còn chơi guitar và piano, viết nhạc và hát nhạc phim cho một số phim điện ảnh mình tham gia. Anh cũng hỗ trợ một số tổ chức từ thiện, trong đó có GO Campaign, đồng thời là gương mặt của thương hiệu nước hoa Dior Homme từ năm 2013.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Robert Douglas Thomas Pattinson[2][3] sinh ngày 13 tháng 5 năm 1986 tại London,[4][5] là con út trong ba người con của Clare (Charlton), một nhân viên đặt hẹn của một công ty người mẫu, và Richard Pattinson, một nhân viên môi giới xe cổ.[6] Anh lớn lên trong một ngôi nhà nhỏ ở Barnes với hai chị gái Elizabeth (Lizzy) và Victoria.[7]

Pattinson tập chơi guitar và piano từ năm 4 tuổi.[8] Anh theo học tại Trường Tower House, nhưng tới năm 12 tuổi thì bị đuổi học vì ăn cắp tạp chí người lớn tại bưu điện và bán cho các bạn nam cùng lớp,[9] sau đó tiếp tục hoàn thành chương trình học tại Trường Harrodian.[10][11]

Từ khi còn là một thiếu niên, Pattinson đã làm người mẫu ảnh cho nhiều nhãn hiệu và tạp chí thời trang của Anh để cải thiện nguồn tài chính cho bản thân. Anh cũng phát triển niềm yêu thích cá nhân với điện ảnh, trong đó Jack Nicholson, Marlon BrandoJean-Paul Belmondo là ba trong số các diễn viên mà anh thần tượng.[12]

Ở những năm cuối tuổi thiếu niên và đầu những năm hai mươi, Pattinson tham gia biểu diễn guitar mộc tại các đêm nhạc mở của các quán rượu quanh London. Anh thường hát các bài hát do mình sáng tác, biểu diễn đơn ca dưới nghệ danh Bobby Dupea hoặc biểu diễn nhóm cùng ban nhạc Bad Girls.[13][14]

Pattinson đã cân nhắc việc trở thành nhạc sĩ hoặc vào đại học để học viết diễn văn, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ theo đuổi sự nghiệp diễn xuất. Giáo viên của anh ở trường thậm chí còn khuyên anh không nên tham gia câu lạc bộ kịch vì cho rằng anh không phù hợp với nghệ thuật sáng tạo.[15][16]

Năm 13 tuổi, Pattinson đã tham gia một câu lạc bộ sân khấu nghiệp dư của địa phương tên là Barnes Theater Company sau khi cha thuyết phục anh tham gia vì cảm thấy con mình khá nhút nhát.[17][18]

Ở tuổi 15, sau hai năm làm việc ở hậu trường, Pattinson tham gia thử vai cho vở kịch Guys and Dolls và nhận vai diễn đầu tiên là một vũ công Cuba không có lời thoại. Anh tiếp tục nhận vai chính trong vở kịch Our Town[11] sau khi được phát hiện bởi một nhân viên tìm kiếm tài năng.[19] Pattinson ngoài ra còn tham gia các vở kịch khác như Macbeth, Anything GoesTess of the d'Urbervilles.[16][20][21]

Anh dự định đi học đại học, nhưng cuối cùng lại không thể thực hiện kế hoạch này do vướng công tác ghi hình cho bộ phim Harry Potter và Chiếc cốc lửa. Anh từng ở chung với người bạn diễn kiêm bạn thân Tom Sturridge trong một căn hộ ở khu Soho, London.[22]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

2004–2007: Bắt đầu sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Pattinson bắt đầu sự nghiệp với các vai diễn phụ trong bộ phim phát sóng truyền hình Ring of the Nibelungs năm 2004 do Đức sản xuất, và trong phim điện ảnh cổ điển Vanity Fair của đạo diễn Mira Nair – mặc dù các cảnh có mặt anh đều đã bị xóa và chỉ được tặng kèm trong phiên bản DVD.[23][24] Tháng 5 năm 2005, anh được lên kế hoạch tham gia buổi công chiếu của The Woman Before tại Nhà hát Royal Court ở Vương quốc Anh, nhưng lời mời đã bị hủy bỏ ngay trước đêm khai mạc và Tom Riley được mời thay thế vai trò của anh.[25] Cuối năm đó, Pattinson vào vai Cedric Diggory trong Harry Potter và Chiếc cốc lửa.[26] Với vai diễn này, anh đã được The Times đặt tên là "Ngôi sao Anh Quốc của ngày mai"[27] và hơn một lần được khen ngợi là người kế nghiệp Jude Law.[11][28][29] Để vào vai diễn này, anh đã phải đi học cách lặn biển.[30]

Năm 2006, Pattinson xuất hiện trong The Haunted Airman, một bộ phim giật gân tâm lý phát sóng trên BBC Four vào ngày 31 tháng 10; tác phẩm đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ giới chuyên môn.[31][32][33] The Stage khen ngợi màn trình diễn của anh là "sự kết hợp hoàn hảo giữa nỗi kinh hoàng của tuổi trẻ và sự giễu cợt đầy mỏi mệt của thế giới."[34] Ngày 19 tháng 2 năm 2007, Pattinson xuất hiện với một vai phụ trong tác phẩm truyền hình một tập dựa trên cuốn tiểu thuyết bán chạy của Kate Long, The Bad Mother's Handbook.[35][36]

2008–2013: The Twilight Saga và sự công nhận quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2008, Pattinson được chọn vào vai Edward Cullen trong Chạng vạng, tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của nữ nhà văn Stephenie Meyer. Theo TV Guide, Pattinson rất lo lắng với việc thử vai vì sợ rằng mình sẽ không thể đạt được đến "sự hoàn hảo" mà khán giả kỳ vọng ở nhân vật.[37] Bộ phim ra mắt ngày 21 tháng 11 năm 2008 và biến Pattinson trở thành một ngôi sao điện ảnh chỉ sau một đêm.[38] Mặc dù Chạng vạng nhận về nhiều đánh giá trái chiều nhưng các nhà phê bình vẫn khen ngợi sự phối hợp ăn ý giữa anh và bạn diễn Kristen Stewart.[39] Tờ New York Times đã gọi Pattinson là một diễn viên "có thực lực và đẹp một cách kỳ lạ"[40] còn Roger Ebert thì cho rằng Pattinson là lựa chọn sáng giá cho vai diễn này.[41] Một phát hành khác của Pattinson năm 2008 là How to Be, bộ phim hài kịch kinh phí thấp do Oliver Irving đạo diễn.[42][43] Phim được trình chiếu tại một số liên hoan phim và nhận về nhiều ý kiến trái chiều từ các nhà phê bình.[44][45] Pattinson sau đó vào vai Salvador Dalí trong Little Ashes, một bộ phim chính kịch hợp tác giữa Tây Ban Nha và Anh do Paul Morrison đạo diễn.[46] Anh cũng thủ vai chính trong phim ngắn The Summer House của Daisy Gili;[47] phim ngắn này sau đó được phát hành lại, trở thành một phần của loạt phim Love & Distrust, bao gồm bộ năm phim ngắn theo chân tám nhân vật có hoàn cảnh khác nhau trong hành trình tìm kiếm sự hài lòng cho chính bản thân mình.[48][49]

Anh tiếp tục đảm nhiệm vai diễn Edward Cullen trong phần tiếp theo của loạt phim The Twilight SagaTrăng non, được phát hành vào ngày 20 tháng 11 năm 2009. Bộ phim đã thu về kỷ lục 142,8 triệu USD trong dịp cuối tuần ra mắt, đạt tổng doanh thu toàn cầu là 709,8 triệu USD.[50] Mặc dù bộ phim nhận được những đánh giá tiêu cực, nhà phê bình phim Michael Phillips từ Chicago Tribune vẫn cho rằng Pattinson rất "thú vị để dõi theo" dù cho phần trang điểm của anh khá tệ.[51] Bill GoodyKoontz từ Arizona Republic bình luận rằng "Pattinson thực sự không xuất hiện phim nhiều đến vậy, nhưng anh đã cố gắng hết sức trong những phân cảnh có mặt mình"[52] còn Michael O'Sullivan của Washington Post thì nhận xét lối diễn xuất của anh là "mạnh mẽ và đồng đều".[53] Vai diễn đã đưa Pattinson trở thành ngôi sao toàn cầu,[54][55] giúp anh trở thành một trong những diễn viên có thu nhập cao nhất thế giới.[56][57][58] Năm 2009, Pattinson tham gia trình bày tại lễ trao giải Oscar lần thứ 81.[59] Ngày 10 tháng 11 năm 2009, Revolver Entertainment phát hành DVD Robsessed, một bộ phim tài liệu kể chi tiết về cuộc đời và sự nổi tiếng của Pattinson.[60] Phim điện ảnh tiếp theo của The Twilight SagaThe Twilight Saga: Nhật thực được phát hành vào ngày 30 tháng 6 năm 2010, thu về 698,4 triệu USD toàn cầu.[61][62] Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều, trong đó Kirk Honeycutt của The Hollywood Reporter ca ngợi màn trình diễn của Pattinson khi nhận định "[Pattinson] khiến bạn phải quên đi lớp trang điểm trắng bóc và chiếc kính áp tròng mắt kỳ lạ – để tập trung vào một nhân vật bị giằng xé giữa tình yêu với cô gái loài người người Bella cùng nhận thức rằng cô ấy sẽ phải từ bỏ trái tim còn đang đập của mình nếu như vẫn còn muốn ở bên anh."[63] Will Lawrence của Empire Online cũng ca ngợi diễn xuất của ba diễn viên chính: "Cả ba góc của tam giác tình yêu đều sắc nét hơn trước rất nhiều [...]. Tất cả đều nhập vai một cách xuất sắc trong bộ phim (may mắn là) không bị khoa trương như các phần phim tiền truyện trước đó."[64]

Pattinson đóng vai trò giám đốc sản xuất kiêm thủ vai chính trong phim điện ảnh Nhớ đến anh, phát hành vào ngày 12 tháng 3 năm 2010.[65] Mặc dù bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều, một số nhà phê bình vẫn khen ngợi diễn xuất của Pattinson. Jake Coyle của The Associated Press nhận định "Đôi mắt hơi cụp, tay áo xắn lên cũng điếu thuốc trên miệng rũ xuống một cách điệu nghệ, Tyler (giống như Edward Cullen) là một kẻ lãng mạn đến khó cưỡng."[66] Ian Nathan của Empire Online cho rằng "đây là [vai diễn] xuất sắc nhất mà anh ấy từng thực hiện",[67] còn Kirk Honeycutt của The Hollywood Reporter thì ca ngợi màn phối hợp ăn ý giữa anh và bạn diễn Emilie de Ravin trong bộ phim khi nhìn nhận "những cảnh giữa Pattinson và de Ravin toát ra vẻ quyến rũ đến không ngờ."[68] Năm 2011, anh thủ vai Jacob Jankowski, nhân vật chính trong Water for Elephants, một tác phẩm chuyển thể từ tiểu thuyết Nước cho voi của Sara Gruen.[69] Phim nhận được nhiều ý kiến trái chiều, nhưng phần diễn xuất của Pattinson lại được khen ngợi. Nhà phê bình phim Richard Corliss từ Time dành lời tán dương đến Pattinson khi đã "tỏa ra một từ tính khiến người xem bị hút chặt vào", đồng thời cho rằng anh đã đạt đến "chất lượng của một ngôi sao".[70] Mick LaSalle từ San Francisco Chronicle nhận xét rằng Pattinson đã thành công trong việc luôn giữ được bản thân ở vị trí trung tâm của một bộ phim lớn và "[khán giả] có thể xem anh diễn không ngừng nghỉ",[71] còn Todd McCarthy của The Hollywood Reporter thì cho rằng vai diễn Jacob của Pattinson "hoàn toàn thuyết phục".[72]

Pattinson tiếp túc thể hiện vai diễn Edward Cullen trong The Twilight Saga: Hừng đông – Phần 1, công chiếu vào ngày 18 tháng 11 năm 2011 và thu về 705 triệu USD tại các phòng vé trên toàn thế giới.[73] Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều đến tiêu cực từ giới phê bình. Trang web tổng hợp bài phê bình Rotten Tomatoes cho biết chỉ có 24% nhà phê bình trong số 188 bài đánh giá được thống kê có nhận định tích cực về bộ phim; đánh giá chung về bộ phim của trang web này là "Chậm rãi, buồn tẻ cùng những khoảnh khắc hài hước vô ý, Hừng đông – Phần 1 có thể làm hài lòng những người hâm mộ trung thành của bộ truyện Chạng vạng, nhưng nó hoàn toàn không làm thỏa mãn những người hâm mộ của loạt phim."[74] Anh sau đó thủ vai Georges Duroy trong tác phẩm chuyển thể từ tiểu thuyết năm 1885 Bel Ami; bộ phim đã có buổi ra mắt tại Liên hoan phim Quốc tế Berlin lần thứ 62.[75] Phim được phát hành vào ngày 12 tháng 2 năm 2012.[76] Pattinson tiếp tục đóng vai chính trong bộ phim Cosmopolis do David Cronenberg đạo diễn,[77] được tham dự tranh giải Cành cọ Vàng tại Liên hoan phim Cannes 2012.[78][79] Tác phẩm được đón nhận nồng nhiệt, với màn trình diễn của Pattinson được đặc biệt khen ngợi. Justin Chang của Variety viết, "Một sự kết hợp hợp lý đến kỳ lạ giữa nhà làm phim và các chất liệu làm phim [...]. Màn trình diễn xuất sắc của Pattinson là một thứ tài sản không thể thiếu được."[80] Nhà phê bình Robbie Collin của The Telegraph cũng khen ngợi màn trình diễn đầy thấu cảm của Robert Pattinson, "vâng, Robert Pattinson – trong vai Packer. Pattinson nhập vai anh ta như một con người thực sự; dù bề mặt có cứng như đá, thì các khoang núi lửa tràn đầy năng lượng tiêu cực cùng sự chán ghét bản thân vẫn đang khuấy động ở sâu thẳm bên dưới."[81]

Pattinson tại sự kiện San Diego Comic-Con International năm 2012.

Pattinson thể hiện vai diễn Edward Cullen lần cuối cùng trong tác phẩm The Twilight Saga: Hừng đông – Phần 2, công chiếu vào ngày 16 tháng 11 năm 2012. Phim thu về hơn 829 triệu USD toàn cầu, trở thành phim điện ảnh có doanh thu cao nhất của loạt phim The Twilight Saga.[82][83] Trên Rotten Tomatoes, bộ phim được tán thành với con số 48%, dựa trên 174 bài phê bình với đồng thuận chung là: "Đây là chương thú vị nhất trong The Twilight Saga, nhưng điều đó không đủ để làm cho Hừng đông – Phần 2 trở nên đáng xem đối với những khán giả ra rạp [...]."[84]

2014–2018: Phim độc lập và lời khen từ giới chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 5 năm 2014, cả hai bộ phim mà Pattinson tham gia diễn xuất đã được công chiếu tại Liên hoan phim Cannes 2014.[85] Bộ phim đầu tiên trong số đó là The Rover của đạo diễn David Michôd[86] mà trong đó Pattinson tham gia đóng cùng với Guy PearceScoot McNairy.[87][88] Tác phẩm có buổi ra mắt trong khuôn khổ những phim điện ảnh không tranh giải tại liên hoan phim.[89] Với vai diễn một thành viên ngây thơ trong băng nhóm tội phạm, Pattinson đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Scott Foundas của Variety nhận định, "Pattinson, bất ngờ lớn nhất của bộ phim, đã thể hiện chất giọng miền Nam đầy thuyết phục, đồng thời mang đến chất riêng cho một vai diễn có thể dễ dàng bị vắt kiệt bởi những hiệu ứng cảm xúc rẻ tiền."[90] Cây viết Todd McCarthy khi bình luận cho The Hollywood Reporter đã viết: "Pattinson mang đến một màn trình diễn, bất chấp những hạn chế của nhân vật, vẫn trở nên mỗi lúc một thú vị hơn theo diễn biến tình tiết bộ phim."[91] Bộ phim thứ hai là Maps to the Stars, một bộ phim chính kịch châm biếm về Hollywood mà Pattinson có cơ hội tái hợp với đạo diễn Cronenberg.[92][93] Phim tham gia tranh giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes 2014.[94] Trong phim, anh vào vai Jerome Fontana, một tài xế xe limo và cũng là một diễn viên đang gặp khó khăn đang trong hành trình trở thành nhà biên kịch nổi tiếng.[95] Robbie Collin của The Daily Telegraph đã tóm tắt phần trình diễn của Pattinson trong tác phẩm này với một từ "thành công".[96]

Năm 2015, cả hai bộ phim Pattinson tham gia diễn xuất đều được công chiếu ra mắt tại Liên hoan phim Quốc tế Berlin lần thứ 65 vào tháng 2. Vai diễn đầu tiên của anh là trong bộ phim Queen of the Desert của đạo diễn Werner Herzog cùng với hai diễn viên Nicole KidmanJames Franco.[97][98] Trong tác phẩm, Pattinson vào vai sĩ quan T. E. Lawrence; vai diễn này được David Rooney của The Hollywood Reporter nhận xét là "chỉ thoáng qua nhưng rất quan trọng".[99] Sam Adams của Indiewire cũng bình luận, "Robert Pattinson nhận được số điểm tương đối cao cho lần trở lại ngắn ngủi của anh dưới tư cách T. E. Lawrence."[100] Tiếp đó, anh tham gia phim điện ảnh Life của đạo diễn Anton Corbijn trong vai nhiếp ảnh gia Dennis Stock của tạp chí Life Magazine; bộ phim có nội dung đề cập đến tình bạn thân thiết giữa Stock và nam diễn viên James Dean.[101][102] Sự đón nhận của giới chuyên môn đối với bộ phim khá trái ngược nhau, dù vậy Pattinson vẫn nhận được nhiều đánh giá cao cho vai diễn này. Guy Lodge của tạp chí Variety ví màn trình diễn của anh như một "bước ngoặt",[103] còn David Rooney của The Hollywood Reporter thì nhận xét Pattinson "đã có phần thể hiện rất toàn mỹ."[104]

Cuối năm 2015, Pattinson xuất hiện trong phim điện ảnh đầu tay của đạo diễn Brady Corbet với tựa đề The Childhood of a Leader, cùng với Bérénice BejoStacy Martin.[105][106] Trong phim, anh đóng hai vai, đầu tiên là vai Charles Marker, một vai diễn ngắn nhưng quan trọng về một phóng viên ở Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, còn vai thứ hai là phiên bản trưởng thành của cậu bé Prescott. Anh đã nhận được nhiều lời khen ngợi cho màn trình diễn của mình, trong đó Peter Bradshaw của The Guardian đã sử dụng từ "tao nhã" để miêu tả,[107] còn Lee Marshall của Screen International thì cảm thán bằng từ "xuất sắc".[108] Năm 2016, Pattinson xuất hiện trong Thành phố vàng đã mất, phiên bản chuyển thể của cuốn sách The Lost City of Z do James Gray đạo diễn, dưới sự hợp tác của hai hãng phim Paramount PicturesPlan B Entertainment.[109][110] Công chiếu ra mắt tại Liên hoan phim New York, phim có sự tham gia diễn xuất của Pattinson trong vai Hạ sĩ Henry Costin, một nhà thám hiểm người Anh. Pattinson đã để râu rậm và phải giảm 35 kg cho vai diễn.[111] Trong số nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình cho vai diễn, Matt Neg của NBP đã gọi anh là "một trong những diễn viên có diễn xuất đỉnh nhất hiện tại",[112] Keith Uhlich trong bài bình luận cho Brooklyn Magazine đã gọi anh là "kẻ cắp màn ảnh",[113] còn Linda Marric khi viết cho Heyuguys thì cảm thấy màn trình diễn của anh đầy "ấn tượng, tinh tế và cũng rất tuyệt vời."[114]

Pattinson tiếp tục tham gia diễn xuất trong bộ phim giật gân Good Time của anh em nhà Safdie, với vai tên cướp ngân hàng Connie Nikas[115] mà anh miêu tả là "một kẻ điện loạn của Queens, New York".[116] Phim ra mắt trong vòng tranh giải của Liên hoan phim Cannes 2017[117] và được coi như một bước ngoặt trong sự nghiệp của Pattinson. Diễn xuất của Pattinson nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình. Guy Lodge của Variety gọi vai diễn là "đỉnh cao trong sự nghiệp",[118] Eric Kohn của Indiewire thì dùng cụm từ "xuất sắc nhất trong sự nghiệp"[119] còn David Rooney từ The Hollywood Reporter thì so sánh với vai diễn Sonny Wortzik của Al Pacino trong Dog Day Afternoon, và ghi nhận đây là "màn trình diễn xuất xắc hơn cả của anh cho đến nay."[120] Pattinson nhận một đề cử giải Tinh thần độc lập cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất với vai diễn của mình trong phim.[121][122] Tháng 8 năm 2017, trong quá trình quảng bá cho Good Time, Pattinson đã viết kịch bản và đóng vai chính trong phim ngắn Fear & Shame của GQ; tác phẩm được tạp chí này miêu tả là: "Robert Pattinson chiến đấu với sự nổi tiếng và nỗi sợ hãi để sở hữu một chiếc hot dog trên đường phố New York". Được ghi hình trên đường phố New York, phim ngắn kể lại hành trình mua một chiếc hot dog của Pattinson trong khi phải tránh mặt giới truyền thông và người hâm mộ giữa nhịp sống hối hả của thành phố.[123][124][125] The A.V. Club gọi tác phẩm này là "kỳ lạ và thú vị",[126] trong khi đó IndieWire nhận định "anh ấy có một tương lai tươi sáng" và "lung linh".[127]

Tác phẩm hài kịch viễn Tây của anh em nhà Zellner Damsel là phim điện ảnh hài kịch đầu tiên mà Pattinson tham gia kể từ khi How to Be ra mắt năm 2008.[128] Pattinson vào vai Samuel Alabaster, một nhà tiên phong lập dị trong hành trình du lịch về miền Tây để tìm kiếm vị hôn thê của mình. Màn trình diễn của anh đã được đón nhận nhiệt liệt: Tờ New York Post gọi nhân vật này là một "màn trình diễn kỳ quặc vui nhộn"[129] còn The A.V. Club thì nhận định Pattinson là "điều tuyệt vời nhất trong Damsel".[130] Bộ phim cuối cùng của anh trong năm 2018 là tác phẩm chính kịch khoa học viễn tưởng High Life của Claire Denis, lấy bối cảnh ngoài không gian, với nội dung về một nhóm tội phạm du hành tới một lỗ đen.[131][132] Ban đầu Denis nhắm Philip Seymour Hoffman cho vai diễn chính, nhưng sau khi biết Pattinson có mong muốn được làm việc với cô, nữ đạo diễn đã đồng ý chọn anh vào vai diễn này.[133] Trong phim, Pattinson thủ vai Monte, một trong những tên tội phạm trên tàu vũ trụ, bất đắc dĩ trở thành một người cha thông qua phưong pháp thụ tinh nhân tạo và phải nuôi dạy con gái mình trong lúc con tàu đang tiến dần đến lỗ đen. Các nhà phê bình dành nhiều lời khen ngợi tới bộ phim, trong đó Allen Hunter của Screen International ghi nhận Pattinson là nhân tố "thống trị" và "hấp dẫn" nhất trong tác phẩm,[134] còn Jason Bailey của The Playlist thì gọi đây là "một màn trình diễn bùng cháy khác của Pattinson".[135]

2019–nay: Tenet, The Batman và sự trở lại với phim giải trí

[sửa | sửa mã nguồn]

Vai diễn đầu tiên trong năm 2019 của Pattinson là phim kinh dị tâm lý đen trắng The Lighthouse của Robert Eggers, lấy bối cảnh trên một hòn đảo xa xôi ở New England vào những năm 1890.[136] Bộ phim ra mắt ở hạng mục Directors' Fortnight của Liên hoan phim Cannes 2019 và nhận được sự hoan nghênh rộng rãi của giới phê bình cho cả bộ phim cũng như phần diễn xuất của Pattinson.[137][138] Trong bài bình luận cho The Guardian, Peter Bradshaw đã miêu tả phần diễn xuất này là "mê hồn" và "ngày một xuất sắc hơn".[139] Cây bút Gregory Ellwood khi viết cho trang Collider đã nêu bật rằng Pattinson luôn "tự dẫn đầu chính mình" và "bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng anh ấy có thể làm được điều đó."[140] Pattinson nhận được đề cử giải Tinh thần độc lập cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất lần thứ hai trong sự nghiệp với vai diễn này.[141] Hai bộ phim sau của Pattinson đều được công chiếu ra mắt tại Liên hoan phim Venice 2019. Anh thủ vai trong sản phẩm thứ hai hợp tác với đạo diễn David Michôd, một bộ phim chuyển thể từ vở kịch của William Shakespeare có tựa đề Quốc vương.[142][143] Nhân vật anh thể hiện trong tác phẩm này là Dauphin, hay Louis xứ Guyenne, một kẻ thù của vua Henry V. Đối với vai diễn này, Pattinson đã học cách bắt chước giọng Pháp của những nhân vật làm việc trong ngành thời trang Pháp.[144] Dù có nhiều ý kiến trái chiều cho phần giọng nói, nhưng các nhà phê bình vẫn nhận xét màn trình diễn của Pattinson là "đánh cắp màn ảnh" và là "điểm nhấn" của cả tác phẩm.[145][146] Tác phẩm còn lại là phim điện ảnh Waiting for the Barbarians của đạo diễn Ciro Guerra, chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết Đợi bọn mọi xuất bản năm 1980 của nhà văn J. M. Coetzee, với sự tham gia diễn xuất của Mark RylanceJohnny Depp.[147] Nhà phê bình Boyd van Hoeij khi bình luận cho The Hollywood Reporter đã gọi nhân vật Pattinson thể hiện là "một vai phụ phẳng lì", The Guardian cũng mô tả màn trình diễn của anh trong phim là "cứng nhắc".[148][149]

Pattinson vào vai một tay gián điệp trong phim điện ảnh Tenet (2020) của đạo diễn Christopher Nolan; bạn diễn của anh trong phim này là John David Washington. Tác phẩm đánh dấu sự trở lại của Pattinson với dòng phim điện ảnh kinh phí lớn.[150] Jessica Kiang của The New York Times gọi vai diễn này là "thú vị" và ca ngợi sự phối hợp ăn ý giữa anh và Washington.[151] Pattinson sau đó xuất hiện trong The Devil All the Time, bộ phim giật gân tâm lý dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Donald Ray Pollock; tác phẩm này nhận nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình.[152] Vào tháng 5 năm 2021, Pattinson ký một hợp đồng sản xuất với các công ty con của Warner, bao gồm Warner Bros. Pictures, New Line Cinema, Warner Bros. TelevisionHBO Max, đại diện cho bước đột phá đầu tiên của nam diễn viên trong vai trò sản xuất.[153] Pattinson tiếp tục thể hiện vai chính trong phim điện ảnh siêu anh hùng The Batman của Matt Reeves với vai Batman; bộ phim được ra mắt vào năm 2022.[154][155][156]

Hoạt động khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Người mẫu

[sửa | sửa mã nguồn]
Pattinson trong bộ sưu tập Menswear mùa thu 2017 của Dior Homme.

Pattinson bắt đầu sự nghiệp người mẫu từ năm 12 tuổi, nhưng khối lượng công việc của anh bắt đầu giảm dần trong bốn năm sau đó. Tháng 12 năm 2008, Pattinson cho rằng việc không làm nhiều công việc người mẫu làm ngoại hình của anh trở nên nam tính hơn: "Khi mới bắt đầu [sự nghiệp], tôi khá cao và trông hơi giống con gái, vậy nên tôi đã nhận được rất nhiều lời mời, vì đó là thời kỳ mà phong cách nam ái nữ được ưa chuộng. Sau đó tôi đoán, tôi đã nam tính hơn rất nhiều, vì vậy tôi không còn kiếm được bất kỳ công việc nào nữa. Tôi đã có một sự nghiệp người mẫu kém thành công nhất trần đời."[157] Pattinson xuất hiện với tư cách là người mẫu cho các tạp chí tuổi teen của Anh, và trong chiến dịch quảng cáo cho bộ sưu tập mùa thu 2007 của Hackett London.[158] Tháng 11 năm 2010, Pattinson được Burberry liên hệ mời trở thành gương mặt đại diện cho thương hiệu với hợp đồng trị giá 1 triệu GBP nhưng anh đã từ chối.[159]

Vào tháng 6 năm 2013, Pattinson được công bố dưới vai trò gương mặt đại diễn của dòng nước hoa Dior Homme.[160][161][162] Từ năm 2013 đến năm 2020, anh xuất hiện trong ba chiến dịch quảng cáo nước hoa của hãng trên truyền hình và báo in. Các công sự của dự án bao gồm hai đạo diễn Romain Gavras và Frédéric Sofiyana, ban nhạc The Blaze, cùng với các nhiếp ảnh gia Peter Lindbergh, Nan GoldinMikael Jansson.[163][164][165] Goldin cũng đã phát hành một cuốn sách có tựa đề Robert Pattinson: 1000 Lives, một bộ sưu tập các hình ảnh của Pattinson từ chiến dịch năm 2013.[166][167] Vào tháng 2 năm 2016, Pattinson được công bố là đại sứ thương hiệu đầu tiên của dòng thời trang nam Dior Men; anh xuất hiện trong nhiều ấn phẩm in của thương hiệu, với phần hình ảnh do các nhiếp ảnh gia Karl Lagerfeld, Peter LindberghDavid Sims thực hiện.[168][169]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Pattinson tập chơi guitar và piano từ năm 4 tuổi, và biết tự viết nhạc cho riêng mình.[170] Anh xuất hiện với tư cách là ca sĩ của hai bài hát trong album nhạc phim Chạng vạng là "Never Think" – do anh đồng sáng tác với Sam Bradley,[171][172] và "Let Me Sign" – một bài hát do Marcus Foster và Bobby Long sáng tác.[173] Các bài hát được đưa vào phim sau khi đạo diễn Catherine Hardwicke tự ý thêm các đoạn thu âm của Pattinson vào bản dựng phim ban đầu trong khi Pattinson không hề hay biết. Pattinson cũng thừa nhận rằng "một trong số [hai bài hát] thực sự đã làm cho phân cảnh trở nên tốt hơn. Nó giống như thuộc về [phân cảnh đó] vậy."[172] Phần nhạc phim của How to Be cũng có ba bài hát do Pattinson trình bày,[174] cả ba đều do nhà soạn nhạc Joe Hastings sáng tác.[175] Pattinson cho biết, "Tôi chưa bao giờ thực sự thu âm bất cứ thứ gì – tôi chỉ chơi nhạc ở các quán rượu và các thứ", và khi được hỏi về sự nghiệp âm nhạc chuyên nghiệp, anh thừa nhận, "Âm nhạc là kế hoạch dự phòng của tôi nếu sự nghiệp diễn xuất thất bại."[172] Năm 2010, Pattinson được trao giải "Nhạc sĩ khó ngờ có tầm ảnh hưởng nhất Hollywood".[176]

Năm 2013, Pattinson chơi guitar trong bài hát "Birds" thuộc album Government Plates của ban nhạc Death Grips.[177] Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 3 năm 2017, Pattinson cho biết anh sẽ đóng góp phần âm nhạc cho bộ phim Damsel sắp tới của mình.[178] Về điều này, Pattinson cho biết "Tôi không chơi nhạc nhiều đến vậy, mặc dù tôi đang thực hiện phần nhạc cho [Damsel]. Tôi đã từng cố tách rời âm nhạc và diễn xuất nhưng càng ngừng chơi nhạc, tôi lại càng thúc đẩy vùng não đó hoạt động."[116] Vào tháng 2 năm 2019, Pattinson hợp tác với ban nhạc Nottingham Tindersticks và phát hành bài hát "Willow" cho phần nhạc phim của High Life.[179] Tháng 10 năm 2020, Pattinson xuất hiện với tư cách khách mời trong buổi biểu diễn ca khúc "3 a.m." của nhóm nhạc Haim trong chương trinh Late Night with Seth Meyers.[180]

Từ thiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Pattinson đã hỗ trợ và thúc đẩy chiến dịch Stop Sex Trafficking of Children and Young People của ECPAT Anh Quốc nhằm ngăn chặn nạn buôn người.[181][182][183] Tại sự kiện amfAR của Liên hoan phim Cannes 2009, anh đã quyên góp được 56.000 USD cho chiến dịch này.[184] Vào tháng 6 năm 2010, anh đã trao tặng tác phẩm nghệ thuật của mình cho PACT; tác phẩm này được bán đấu giá trên eBay để lấy nguồn kinh phí giúp tổ chức hoạt động vì các trẻ em mất tích.[185][186] Anh cũng tặng một bản phác thảo do chính anh thực hiện có tên là Unfinished City, được mua qua hình thức đấu giá với giá 6.400 USD.[187] Số tiền từ cuộc đấu giá được chuyển đến trung tâm Ozanam Manor cho người vô gia cư có trụ sở tại Arizona.[188] Tháng 1 năm 2010, anh tham gia chương trình từ thiện Hope for Haiti Now.[189] Tháng 3 năm 2010, anh ký tặng chiếc đàn guitar của mình và đem bán đấu giá, số tiền thu về được chuyển đến Midnight Mission, một tổ chức hoạt động vì nhân quyền.[190] Anh cũng đã quyên góp 80.000 USD cho GO Campaign bằng cách tổ chức một cuộc gặp gỡ với người hâm mộ trên phim trường Hừng đông – Phần 1 và sau đó là một lần lần đấu giá khác cho buổi chiếu riêng tư của bộ phim này.[191]

Tháng 8 năm 2011, Pattinson đã giúp nâng cao nhận thức về căn bệnh ung thư bằng cách chia sẻ về chiến dịch The Cancer Bites trong bài phát biểu nhận giải tại Giải Teen Choice 2011.[192][193] Tháng 8 năm 2013, anh đến thăm Bệnh viện Nhi Los Angeles và tham gia vào các hoạt động nghệ thuật và thủ công cùng các bệnh nhân nhỏ tuổi.[194][195] Tháng 9 năm 2013, anh gia nhập International Medical Corps và trở thành một trong những người phát ngôn của tổ chức nhằm giúp nâng cao nhận thức trước thảm họa bằng cách tăng cường sức mạnh cộng đồng.[196][197] Anh cũng tham gia cuộc đấu giá từ thiện Go Go Gala do GO Campaign tổ chức và mua một cây đàn cello làm từ vật liệu tái chế với giá 5.600 USD vào ngày 15 tháng 11 năm 2013.[198][199] Tháng 3 năm 2014, Pattinson đã quyên góp các vật phẩm có chữ ký của mình để bán đấu giá nhằm gây quỹ cho Quỹ nghiên cứu ung thư tuyến tiền liệt.[200] Tháng 5 năm 2014, anh quyên góp chiếc xe đạp của mình cho một cuộc đấu giá nhằm mang lại lợi ích cho Royal Flying Doctor Service (RFDS), tổ chức chuyên cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản cho dân cư sống ở những vùng hẻo lánh.[201] Anh còn tham gia vào ALS Ice Bucket Challenge, thúc đẩy nhận thức về bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS).[202] Vào tháng 11 năm 2014, Pattinson tham gia vào chương trình từ thiện hàng năm của GO Campaign.[203] Tháng 10 năm 2015, anh tham gia chiến dịch Global Goals Campaign, với mục tiêu hoàn thành xóa đói giảm nghèo vào năm 2030.[204]

Năm 2015, Pattinson trở thành đại sứ đầu tiên của GO Campaign. Anh cho biết, "Tôi đã theo dõi những hoạt động ngày một phủ rộng của GO Campaign trong những năm gần đây cho rất nhiều trẻ em và thanh thiếu niên, và tôi thích việc [chiến dịch này] luôn vô cùng rõ ràng và minh bạch. [...] Tôi đã là một nhà tài trợ và một người ủng hộ, và bây giờ tôi mong muốn được đồng hành cùng những nỗ lực của họ. Chúng ta có thể cùng nhau trao cơ hội tới nhiều trẻ em và thanh thiếu niên trên toàn cầu hơn."[205] Tháng 5 năm 2019, tại Liên hoan phim Cannes 2019, Pattinson cùng với Helen Mirren đã làm dẫn chương trình cho một sự kiện từ thiện do Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood (HFPA) tổ chức. Pattinson và Mirren đã thay mặt HFPA tặng 500.000 USD cho tổ chức viện trợ quốc tế Help Refugees.[206] Trong lần phong tỏa đầu tiên do đại dịch COVID-19 vào mùa xuân năm 2020, Pattinson đã quyên góp cho quỹ khẩn cấp của GO Campaign nhằm cung cấp lương thực, thực phẩm và các sản phẩm vệ sinh cho các gia đình dễ bị ảnh hưởng bởi đại dịch tại London và Los Angeles.[207] Trong quá trình ghi hình cho The Batman tại Liverpool vào tháng 10 năm 2020, Pattinson đã gây bất ngờ cho một người hâm mộ Batman 10 tuổi mắc chứng tự kỷ bằng cách gửi tặng cậu một món quà vì cậu bé luôn tới phim trường mỗi ngày và chờ đợi để được gặp Pattinson, nhưng do những hạn chế trong đại dịch nên mong muốn của cậu không thành hiện thực.[208]

Hình tượng

[sửa | sửa mã nguồn]

Pattinson đã được nhiều phương tiện truyền thông khác nhau, bao gồm tạp chí PeopleGlamour UK, bình chọn là một trong những "Người đàn ông quyến rũ nhất" vào năm 2008 và 2009.[209][210][211] AskMen đưa Pattinson vào top 49 người đàn ông có tầm ảnh hưởng nhất năm 2009.[212] Cũng trong năm 2009, tạp chí Vanity Fair vinh danh Pattinson là "người đàn ông đẹp nhất thế giới" cùng với Angelina Jolie là người phụ nữ đẹp nhất thế giới.[213] Pattinson cũng được Vanity Fair vinh danh là một trong "Những người kiếm được nhiều tiền nhất Hollywood năm 2009" với thu nhập ước tính lên tới 18 triệu USD trong năm.[56][214] Cả GQ lẫn Glamour đều vinh danh anh là "Người đàn ông mặc đẹp nhất" năm 2010, trong đó GQ miêu tả phong cách thời trang của nam diễn viên là "thanh lịch và truyền cảm hứng".[215][216] Năm 2010, tạp chí People cũng nhắc tới tên Pattinson trong số ấn phẩm "Người đẹp nhất thế giới".[217]

Tờ The Sunday Times đã xếp anh vào "danh sách những triệu phú trẻ tuổi" ở Anh, với trị giá tài sản lên tới 13 triệu GBP.[218] Năm 2010, tạp chí Time đã đưa tên anh vào trong danh sách 100 người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới. Anh cũng được giới thiệu trong danh sách Forbes Celebrity 100.[219][220] Ngày 14 tháng 11 năm 2010, Pattinson đã nhận được hai giải BBC Radio 1 Teen Award, bao gồm Người mặc đẹp nhất và Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.[221] Năm 2011, Pattinson đứng thứ 15 trong "Top 40 Hollywood" của Vanity Fair với mức thu nhập 27,5 triệu USD trong năm 2010.[222] Tạp chí GQ cũng một lần nữa xướng tên Pattinson là "Người đàn ông mặc đẹp nhất" của năm 2012.[223] Tháng 10 năm 2012, Pattinson được tạp chí Glamour UK vinh danh là "Người đàn ông quyến rũ nhất".[224]

Năm 2013, Pattinson đứng á quân trong danh sách "Người nổi tiếng dưới 30 tuổi giàu nhất Vương quốc Anh" của Glamour UK với thu nhập 45 triệu GBP.[225] Tháng 2 năm 2014, anh xuất hiện trên trang bìa của World Film Locations: Toronto, một cuốn sách nói về Toronto và những bộ phim được quay ở thành phố này.[226] Tới tháng 10 năm 2014, Pattinson đứng thứ 3 trong "danh sách thường niên những ngôi sao trẻ người Anh giàu có" của tạp chí Heat với thu nhập 82,9 triệu USD.[227] London Evening Standard cũng đưa anh vào danh sách 1000 người có ảnh hưởng nhất của London năm 2014.[228] Năm 2020, Pattinson đứng đầu danh sách "Những người đàn ông đẹp trai nhất thế giới" với tỷ lệ vàng đạt 92,15%.[229]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Pattinson hiếm khi thảo luận về cuộc sống cá nhân và tỏ ra ác cảm với cánh săn ảnh và báo lá cải.[230] Năm 2017, anh chia sẻ về việc mình mắc chứng rối loạn lo âu, căn bệnh vốn xuất hiện từ những năm đầu khi anh mới nổi tiếng.[231] Tháng 9 năm 2020, giữa đại dịch COVID-19, Pattinson được cho là đã có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19 và quá trình quay phim cho The Batman phải tạm ngừng. Warner Bros. từ chối bình luận về danh tính của người được nhắc đến, nhưng nhiều nguồn tin có "hiểu biết về quá trình sản xuất" đã xác nhận điều này.[232]

Vào giữa năm 2009, Pattinson bắt đầu hẹn hò với bạn diễn Chạng vạng Kristen Stewart.[233] Pattinson và Stewart sau đó có tạm ngừng mối quan hệ một thời gian, nhưng đã hòa giải với nhau vào tháng 10 năm 2012. Cặp đôi cuối cùng đã chia tay nhau vào tháng 5 năm 2013.[234] Pattinson bắt đầu hẹn hò với ca sĩ kiêm nhạc sĩ FKA Twigs vào tháng 9 năm 2014. Cả hai sau đó đã đính hôn, những lại quyết định chấm dứt mối quan hệ vào mùa hè năm 2017.[235] Pattinson sau đó có mối quan hệ tình cảm với người mẫu Suki Waterhouse kể từ giữa năm 2018.[236] Cặp đôi hiện đang cư trú tại London.[237]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Dấu tay, dấu chân và chữ ký của (từ trái sang phải) Taylor Lautner, Kristen Stewart và Pattinson.

Pattinson đã nhận được giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Strasbourg cho vai diễn trong How to Be (2009).[238] Vai diễn Edward Cullen trong The Twilight Saga đã giúp anh có được 2 đề cử giải Empire, 11 giải MTV Movie Awards, 2 giải People's Choice cùng nhiều giải thưởng và đề cử khác.[239][240][241] Năm 2014, anh nhận được đề cử từ giải AACTA và Giải Màn ảnh Canada lần lượt cho các vai diễn trong The RoverMaps to the Stars.[242][243] Vào tháng 7 năm 2018, Pattinson đã nhận được giải thưởng cao nhất tại lễ bế mạc Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary lần thứ 53.[244]

Tượng sáp của Pattinson được đặt bảo tàng Madame TussaudsLondonthành phố New York từ năm 2010.[245][246] Pattinson cùng với hai bạn diễn từ The Twilight SagaKristen StewartTaylor Lautner đã đặt chữ ký, dấu tay và dấu giày lên nền bê tông tại rạp Grauman's Chinese Theatre vào ngày 3 tháng 11 năm 2011.[247] Ngày 19 tháng 2 năm 2014, nhà thiên văn học người Nga Timur Kryachko đã đặt tên cho một tiểu hành tinh mà ông đã phát hiện theo tên của Pattinson, cái tên được đặt là 246789 Pattinson.[248][249]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai Ghi chú
2004 Vanity Fair Rawdy Crawley trưởng thành Cảnh bị xóa
2005 Harry Potter và Chiếc cốc lửa Cedric Diggory
2007 Harry Potter và Hội Phượng hoàng Cảnh quay lưu trữ
2008 How to Be Art
Chạng vạng Edward Cullen
2009 Little Ashes Salvador Dalí
Trăng non Edward Cullen
2010 Nhớ đến anh Tyler Hawkins Kiêm giám đốc sản xuất
The Twilight Saga: Nhật thực Edward Cullen
Love & Distrust Richard
2011 Water for Elephants Jacob Jankowski
The Twilight Saga: Hừng đông – Phần 1 Edward Cullen
2012 Bel Ami Georges Duroy
Cosmopolis Eric Packer
The Twilight Saga: Hừng đông – Phần 2 Edward Cullen
2014 The Rover Reynolds
Maps to the Stars Jerome Fontana
2015 Queen of the Desert T. E. Lawrence
Life Dennis Stock
2016 The Childhood of a Leader Charles Marker / Prescott trưởng thành
Thành phố vàng đã mất Henry Costin
2017 Good Time Constantine "Connie" Nikas
Fear & Shame Chính mình Phim ngắn; kiêm biên kịch
2018 Damsel Samuel Alabaster
High Life Monte
2019 The Lighthouse Ephraim Winslow / Thomas Howard
Quốc vương Dauphin
Waiting for the Barbarians Sĩ quan Mandel
2020 Tenet Neil
The Devil All the Time Preston Teagardin
2022 The Batman Bruce Wayne / Batman
2023 Thiếu niên và chim diệc Chim diệc xám Lồng tiếng, phiên bản tiếng Anh
2024 Mickey 7 Mickey Barnes

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai Ghi chú
2004 Ring of the Nibelungs Giselher Phim điện ảnh truyền hình
2006 The Haunted Airman Toby Jugg Phim điện ảnh truyền hình
2007 The Bad Mother's Handbook Daniel Gale Phim điện ảnh truyền hình

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Album Nghệ sĩ Ghi chú
2013 "Birds" Government Plates Death Grips Chơi guitar

Nhạc phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Album
2008 "Never Think" Twilight: Original Motion Picture Soundtrack
"Let Me Sign"
2009 "Chokin' on the Dust" (Part 1) How to Be Soundtrack: Original Motion Picture Soundtrack
"Chokin' on the Dust" (Part 2)
"Doin' Fine"
2018 "Honeybun" Damsel: Original Motion Picture Soundtrack
2019 "Willow" (với tindersticks) High Life: Original Motion Picture Soundtrack

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Robert Pattinson: 6 Things You Need To Know About The Next Batman Actor”. Cinemablend. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2020.
  2. ^ “Getting to know the "Twilight" actors”. Newsday. 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2008.
  3. ^ “Robert Pattinson Biography”. The Biography Channel UK. The Biography Channel. A&E Television Networks and Disney-ABC Television Group. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2013.
  4. ^ “Monitor”. Entertainment Weekly (1207). 18 tháng 5 năm 2012. tr. 29.
  5. ^ “Robert Pattinson”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2009.
  6. ^ Stenning, Paul (2010). The Robert Pattinson Album. Plexus. ISBN 978-0859654388.
  7. ^ Tibbetts, Graham (2 tháng 12 năm 2008). “Profile of Twilight star Robert Pattinson”. Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). ISSN 0307-1235. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  8. ^ Biography Today. Detroit, Michigan: Omnigraphics. 2009. tr. 136. ISBN 978-0-7808-1052-5.
  9. ^ “Robert Pattinson Was Expelled From School For Selling Porn”. Refinery29.com.
  10. ^ "Biography Today", p.136
  11. ^ a b c Flora Stubbs (17 tháng 11 năm 2005). “Potter star 'next Jude Law'. London Evening Standard. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  12. ^ “Robert Pattinson on Moving Past 'Twilight,' Cold-Calling A-List Directors and Downsizing His Life”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2014.
  13. ^ “WATCH: Robert Pattinson's living room gig”. Marie Claire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2010.
  14. ^ “Robert Pattinson interview: Reality bites”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  15. ^ “Robert Pattinson Talks About Being An 'Uncomfortable' Person”. Elle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2015.
  16. ^ a b 'Awards Chatter' Podcast — Robert Pattinson ('Good Time')”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2017.
  17. ^ “Robert Pattinson: vampire slayer”. NYC Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2010.
  18. ^ “Robert Pattinson: I Act For 'Pretty Girls'. AccessOnline (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2009.
  19. ^ “Robert Pattinson: 'the attention I get now is just mind-bending'. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2008.
  20. ^ “Twilight's Hot Gleaming”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2009.
  21. ^ “Tess of the Durbervilles” (bằng tiếng Anh). CBS News. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2009.
  22. ^ “10 things you never knew about Robert Pattinson”. BBC America.
  23. ^ “The Curse of the Ring (Ring of the Nibelungs) (2004)”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  24. ^ “Reese Witherspoon Gushes About Robert Pattinson”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019.
  25. ^ “Robert Pattinson: Teen heartthrob Robert Pattinson is an English actor, model and musician best known for playing vampire Edward Cullen in Twilight”. STV. 12 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2009.
  26. ^ Sona Charaipotra (14 tháng 11 năm 2008). “A Night Out With Robert Pattinson”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2009.
  27. ^ Lisa Dillon (26 tháng 5 năm 2005). “Almost famous”. The Times. UK. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
  28. ^ “Top 20 Rising Stars Under 30”. Saturday Night Magazine. 29 tháng 7 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
  29. ^ “Teen People Names 'Artists of the Year' and 'What's Next'. Starpulse. 2 tháng 11 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2008.
  30. ^ “Robert Pattinson: 27 Photos & 27 Facts for his 27th B-Day”. Mix 107.9. 1 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2019.
  31. ^ “Review: The Haunted Airman/Dennis Wheatley: A Letter to Posterity”. tháng 11 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  32. ^ “The Haunted Airman – a very artsy film reviewed”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  33. ^ “First Editions 1946–1951”. denniswheatley.info. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  34. ^ “The Stage: Review”. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  35. ^ “The Bad Mother's Handbook”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  36. ^ “The Bad Mother's Handbook – rounding off my Robert Pattinson phase”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  37. ^ “Before the Spotlight, Twilight's Robert Pattinson Was Intimidated by "Perfect" Role”. TV Guide. 21 tháng 11 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2008.
  38. ^ “Twilight”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  39. ^ “Reviews”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  40. ^ Dargis, Manohla (20 tháng 11 năm 2008). “Twilight Review”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  41. ^ “Twilight Movie Review”. RogerEbert.com. 19 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  42. ^ “Robert Pattinson's 'How To Be'. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  43. ^ “Movie Preview: Robert Pattinson in How To Be”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  44. ^ “Slamdance Film Festival 2008 Winners”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  45. ^ “How to be”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  46. ^ “LITTLE ASHES MOVIE WITH ROBERT PATTINSON AS DALI”. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  47. ^ “Robert Pattinson's Short Film 'The Summer House': Director Daisy Gili Dishes!”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  48. ^ “Poster for LOVE & DISTRUST "Starring" Robert Pattinson, Robert Downey Jr., and Sam Worthington”. Collider. 7 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  49. ^ “LOVE & DISTRUST”. Premiere Home Video Lexington. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  50. ^ “The Twilight Saga: New Moon Box Office”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  51. ^ “Movie Review”. Chicago Tribune. 19 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  52. ^ “New Moon Review”. Arizona Republic. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  53. ^ O'Sullivan, Michael (20 tháng 11 năm 2009). “Movie Review”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  54. ^ Rebecca Murray (31 tháng 7 năm 2008). “Robert Pattinson Discusses 'Twilight'. About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2009.
  55. ^ Hillary Atkin (16 tháng 11 năm 2008). “Exclusive Interview: Robert Pattinson”. Fandango. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2009.
  56. ^ a b Peter Newcomb (tháng 3 năm 2010). “Peter Newcomb on the Top Hollywood Earners of 2009”. Vanity Fair. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
  57. ^ Dorothy Pomerantz. “Robert Pattinson”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2012.
  58. ^ Pomerantz, Dorothy (6 tháng 12 năm 2011). “Hollywood's Best Actors for the Buck”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017.
  59. ^ Josh Horowitz (17 tháng 2 năm 2009). “Report: Robert Pattinson To Present At Academy Awards”. MTV Movie Blogs. MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2009.
  60. ^ Ditzian, Eric (6 tháng 10 năm 2009). “Robert Pattinson's Life Is Subject Of 'Robsessed' Documentary”. MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2009.
  61. ^ Adam Rosenberg (30 tháng 6 năm 2009). 'The Twilight Saga: Eclipse' Shoot Dates Revealed!”. MTV Movie Blogs. MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2009.
  62. ^ “The Twilight Saga: Eclipse Box Office”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  63. ^ Kirk Honeycutt (8 tháng 3 năm 2010). “TWILIGHT SAGA ECLIPSE: review”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
  64. ^ Ian Nathan (22 tháng 3 năm 2010). “The Twilight Saga: Eclipse When hairy met sullen”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
  65. ^ “Robert Pattinson's REMEMBER ME Crosses $50 Million Mark Worldwide”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  66. ^ Jake Coyle (10 tháng 3 năm 2010). “Review: Pattinson still brooding in 'Remember Me'. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  67. ^ Ian Nathan (22 tháng 3 năm 2010). “Review: Remember Me”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  68. ^ Kirk Honeycutt (8 tháng 3 năm 2010). “Remember Me – Film Review”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
  69. ^ Pamela McClintock (21 tháng 1 năm 2010). “Penn, Pattinson circle 'Water'. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2010.
  70. ^ “Water For Elephants Review”. Time. 21 tháng 4 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  71. ^ Lasalle, Mick (21 tháng 4 năm 2011). “Water For Elephants Review”. San Francisco Chronicle. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  72. ^ McCarthy, Todd. “Water For Elephants Review”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  73. ^ “The Twilight Saga: Breaking Dawn Part 1 Box Office”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  74. ^ “Twilight Saga: Breaking Dawn Part 1”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  75. ^ “18 World Premieres in the Competition”. berlinale.de. 20 tháng 1 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2012.
  76. ^ “Christina Ricci Joins Robert Pattinson in BEL AMI”. Collider.com. 8 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  77. ^ “Cosmopolis”. MTV Movies blog. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
  78. ^ “2012 Official Selection”. Cannes. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2012.
  79. ^ “Cannes Film Festival 2012 line-up announced”. Time Out. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2012.
  80. ^ Chang, Justin (25 May 2012). [1] Lưu trữ 18 tháng 8 2012 tại Wayback Machine. Variety. Retrieved 29 May 2012.
  81. ^ Collin, Robbie (26 May 2012). [2] Lưu trữ 20 tháng 1 2018 tại Wayback Machine. The Telegraph. Retrieved 29 May 2012.
  82. ^ Steve Weintraub (31 tháng 12 năm 2012). “The Twilight Saga: Breaking Dawn Part 2 Gets Released November 16, 2012”. Collider.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2010.
  83. ^ “The Twilight Saga: Breaking Dawn Part 2 box office”. boxofficemojo.com. 31 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2012.
  84. ^ “The Twilight Saga: Breaking Dawn Part 2 (2012)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2013.
  85. ^ “Rob Pattinson Stars in Two Cannes Entries: 'Map to the Stars' and 'The Rover' (NEW TRAILER, POSTERS)”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2014.
  86. ^ “Robert Pattinson To Star In 'The Rover'. Deadline Hollywood. 3 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2014.
  87. ^ 'The Rover' Teaser Trailer – Robert Pattinson and Guy Pearce Trek Across the Australian Outback”. thefilmstage. 2 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2014.
  88. ^ 'The Rover:' Robert Pattinson FINALLY Wraps Filming in Australia! [PHOTOS]”. International Business Times. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2013.
  89. ^ 'Foxcatcher,' 'Map To The Stars,' 'The Rover,' 'The Search' And New Jean-Luc Godard Lead Cannes 2014 Line-Up”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2014.
  90. ^ “Cannes Film Review: 'The Rover'. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2014.
  91. ^ “The Rover: Cannes Review”. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2014.
  92. ^ “David Cronenberg's 'Maps to the Stars' Finds Julianne Moore, John Cusack & EOne”. 1 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2013.
  93. ^ “Julianne Moore, John Cusack & Sarah Gadon Join Robert Pattinson in David Cronenberg's 'Map to the Stars'. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2013.
  94. ^ 'The Search' And New Jean-Luc Godard Lead Cannes 2014 Line-Up”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2014.
  95. ^ “Maps to the Stars Production Notes” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2014.
  96. ^ “Cannes 2014, Maps to the Stars, review: 'a nightmare you don't want to wake from'. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2014.
  97. ^ Kit, Borys (14 tháng 8 năm 2012). “Robert Pattinson Joining Naomi Watts in 'Queen of the Desert'. The Hollywood Reporter.com. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  98. ^ “Robert Pattinson attached to Herzog's 'Queen'. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  99. ^ 'Queen of the Desert': Berlin Review”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2015.
  100. ^ “Nicole Kidman and Robert Pattinson in 'Queen of the Desert' Reviews: Herzog's Flat Epic Could Make a Camel Groan”. Indiewire. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2015.
  101. ^ Kit, Borys (5 tháng 9 năm 2013). “Toronto: Robert Pattinson, Dane DeHaan to Star in 'Life'. The Hollywood Reporter.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
  102. ^ “Pattinson, DeHaan join Life”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
  103. ^ “Berlin Film Review: Anton Corbijn's 'Life'. Variety. 9 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  104. ^ 'Life': Berlin Review”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  105. ^ “Berenice Bejo Joins Robert Pattinson Drama 'The Childhood of a Leader' (EXCLUSIVE)”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  106. ^ “Robert Pattinson to Co-Star in 'The Childhood of a Leader'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  107. ^ Bradshaw, Peter (1 tháng 8 năm 2016). “The Childhood of a Leader review – stunning origins story for a future fascist”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2016.
  108. ^ 'Childhood Of A Leader': Review”. Screen Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2015.
  109. ^ “Robert Pattinson Joins James Gray's 'Lost City of Z' With Benedict Cumberbatch”. blogs.indiewire.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2013.
  110. ^ “Watch James Gray's Chanel Short Film as 'Lost City of Z' Adds Charlie Hunnam”. The Film Stage. 5 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2015.
  111. ^ “Robert Pattinson Really Hated His "Disgusting" 'Lost City of Z' Beard”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2017.
  112. ^ "THE LOST CITY OF Z" REVIEW”. NBP. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2016.
  113. ^ “#NYFF 2016: The Lost City of Z”. 1 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2016.
  114. ^ “Berlinale 2017: The Lost City of Z Review”. bkmag.com. 1 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2017.
  115. ^ “Robert Pattinson to Star in Caper 'Good Time' (Exclusive)”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2015.
  116. ^ a b “Robert Pattinson Says He's Making A "100% Improvised Movie" & Creating Music For A Slapstick Comedy”. The Playlist. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2016.
  117. ^ “2017 Cannes Film Festival Announces Lineup: Todd Haynes, Sofia Coppola, 'Twin Peaks' and More”. indiewire.com. 13 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2017.
  118. ^ “Cannes Film Review: Robert Pattinson in 'Good Time'. 2 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2017.
  119. ^ “Robert Pattinson Gives a Career-Best Performance in the Safdie Brothers' 'Good Time' — Cannes 2017 Review”. 2 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2017.
  120. ^ 'Good Time': Film Review Cannes 2017”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2017.
  121. ^ Sharf, Zach (21 tháng 11 năm 2017). “2018 Independent Spirit Award Nominations: 'Get Out' and 'Call Me by Your Name' Dominate”. Indiewire. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2018.
  122. ^ Warren, Matt (26 tháng 10 năm 2017). “Lily Collins and Tessa Thompson to Reveal Spirit Awards Nominees November 21”. Film Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2017.
  123. ^ Billington, Alex. “Watch: Robert Pattinson's Short 'Fear & Shame' About a NYC Hot Dog”. FirstShowing.net. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2017.
  124. ^ “Watch Robert Pattinson Run Around New York City Doing a Gollum Voice and Looking for a Hot Dog”. 9 tháng 8 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  125. ^ “Robert Pattinson Is Alive Again”. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  126. ^ Colburn, Randall. “Like us all, Robert Pattinson just wants a hot dog”. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2017.
  127. ^ Dry, Jude (1 tháng 8 năm 2017). “Robert Pattinson Frantically Searches for a Hot Dog in Hilarious Short — Watch”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2017.
  128. ^ “Robert Pattinson Leading Zellner Brothers' Western 'Damsel'; Mia Wasikowska in Talks to Join”. 1 tháng 7 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2016.
  129. ^ Stewart, Sara (2 tháng 1 năm 2018). 'Damsel' flips the script on macho Westerns”. New York Post. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
  130. ^ Dowd, A.A. “Robert Pattinson in spurs, Debra Granik in nature, and the best movies of Sundance 2018”. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
  131. ^ “Robert Pattinson to star in Claire Denis sci-fi”. Screen Daily. 26 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2015.
  132. ^ “Mia Goth To Star With Robert Pattinson In 'High Life'. 2 tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2015.
  133. ^ Roxborough, Scott. “Why Robert Pattinson Was the Perfect Actor for Claire Denis' Sci-Fi Movie”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
  134. ^ Hunter, Allen. 'High Life': Toronto Review”. Screen International. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
  135. ^ Bailey, Jason. 'High Life': Claire Denis Makes Strange, Scary, Kinky Sci-Fi With Robert Pattinson [TIFF Review]”. The Playlist.net. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
  136. ^ “The Lighthouse': Robert Pattinson to Star in 'The Witch' Director's Fantasy Horror Film Based on 'Old Sea-Faring Myths'. 1 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
  137. ^ “Cannes: Directors' Fortnight unveils lineup”. 23 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2019.
  138. ^ “The Lighthouse' Ignites Cannes, Along With Robert Pattinson and Willem Dafoe Oscar Talk”. 20 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2019.
  139. ^ “The Lighthouse review – Robert Pattinson shines in sublime maritime nightmare”. 1 tháng 6 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2019.
  140. ^ 'The Lighthouse' Review: Robert Pattinson Goes Mad in 'The Witch' Director's New Film Cannes”. 1 tháng 6 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2019.
  141. ^ Haylock, Zoe (21 tháng 11 năm 2019). “The Lighthouse, Uncut Gems Lead 2020 Indie Spirit Nominations”. Vulture. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  142. ^ “Robert Pattinson and Timothée Chalamet Cast in Battle for Heartthrob Crown”. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
  143. ^ Sharf, Zack (25 tháng 7 năm 2019). 'The King' First Look: All Hail Timothée Chalamet in Netflix's Shakespearean Drama”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2019.
  144. ^ “And the Oscar Goes to: Robert Pattinson's French Accent”. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  145. ^ “The King review – Timothée Chalamet is all at sea as Prince Hal”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  146. ^ “The King review: Timothee Chalamet stars in an exhaustingly solemn take on Shakespeare”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  147. ^ “Johnny Depp circling Ciro Guerra's 'Waiting For The Barbarians' (exclusive)”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
  148. ^ 'Waiting for the Barbarians': Film Review Venice 2019”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  149. ^ “Waiting for the Barbarians review – Johnny Depp turns up the heat in the desert”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  150. ^ Baron, Zach (12 tháng 5 năm 2020). “Robert Pattinson: A Dispatch From Isolation”. GQ. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2020.
  151. ^ 'Tenet' Review: Christopher Nolan's Time-Bending Take on James Bond”. The New York Times. 21 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2020.
  152. ^ “Robert Pattinson Talks "F**king Dark" Project With Antonio Campos”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2017.
  153. ^ “Robert Pattinson signs overall first-look deal with Warner Bros”. The Hollywood Reporter.
  154. ^ Kroll, Justin (16 tháng 5 năm 2019). “Robert Pattinson to Play 'The Batman' for Matt Reeves and Warner Bros. (EXCLUSIVE)”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  155. ^ Galuppo, Mia; Kit, Borys (16 tháng 5 năm 2019). “Robert Pattinson Frontrunner to Play Batman in Matt Reeves's DC Movie”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  156. ^ McNary, Dave (31 tháng 5 năm 2019). “Robert Pattinson Is Officially 'The Batman'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2019.
  157. ^ “Why Robert Pattinson's Modeling”. New York. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2009.
  158. ^ “Robert Pattinson-Hackett Campaign”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  159. ^ “Robert Pattinson turns down £1m deal to model for Burberry”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2017.
  160. ^ “Robert Pattinson Announced As New Face of Dior Homme”. 1 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2013.
  161. ^ “Dior Confirms Pattinson as New Face”. 1 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2013.
  162. ^ “Robert Pattinson For Dior”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2013.
  163. ^ “BEHIND THE SCENES: Robert Pattinson commercial for Dior Homme”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2013.
  164. ^ “CONFIRMED: Robert Pattinson Is The New Face Of Dior Homme Fragrance”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2013.
  165. ^ “Robert Pattinson Confirmed As New Face of Dior BY CHARLOTTE COWLES”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2013.
  166. ^ “Robert Pattinson Is Living 1,000 Lives in Dior”. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
  167. ^ 1000 Lives [Paperback]. ASIN 0847843173.
  168. ^ “ROBERT PATTINSON IS THE FIRST CELEBRITY FACE OF DIOR HOMME READY-TO-WEAR”. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016.
  169. ^ “Robert Pattinson always more magnetic for Dior”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2017.
  170. ^ “Robert Pattinson: 'I might make an album'. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  171. ^ “Sam Bradley Interview”. Portrait Magazine. tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2009.
  172. ^ a b c Gina McIntyre (9 tháng 10 năm 2008). “Robert Pattinson on his 'Twilight' songs: 'Music is my backup plan if acting fails'. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2009.
  173. ^ Becky Reed. “Twilight Star Talks Soundtrack”. Click Music. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2009.
  174. ^ “Robert Pattinson Sings Three Songs in Indie Flick How to Be”. Us Magazine. 11 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2009.
  175. ^ “Songs composed by Joe Hastings in Indie Flick How to Be”. How to Be Movie. 9 tháng 3 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2009.
  176. ^ “Robert Pattinson Awarded Musical Honour”. MTV UK. MTV. 7 tháng 5 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
  177. ^ “Death Grips "Birds" features Robert Pattinson on guitar”. Pitchfork.
  178. ^ “Rob's weird world”. Metro News. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2016.
  179. ^ Clarke, Patrick (28 tháng 2 năm 2019). “Listen to Robert Pattinson's new single 'Willow' in collaboration with tindersticks”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2019.
  180. ^ “Haim enlists Robert Pattinson for 3 a.m. performance on Seth Meyers”. Pitchfork.
  181. ^ “Stars across the globe raise their hands to stop child trafficking”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  182. ^ “Stop Sex Trafficking Campaign”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  183. ^ “Robert Pattinson And Others Raise Their Hands For Charity”. 1 tháng 7 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  184. ^ “Pucker up for a pricey Robert Pattinson kiss”. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  185. ^ “BID NOW in PACT's celebrity art auction!”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  186. ^ “Robert Pattinson's Balloon Design Goes Under The Hammer For Charity”. 2 tháng 7 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  187. ^ “Unfinished City”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  188. ^ “Robert Pattinson, A Pencil, A Sketch And The Homeless: Raising Arizona”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  189. ^ “Robert Pattinson Speaks At 'Hope For Haiti Now' Telethon: Use Technology To Help Haiti Crisis”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  190. ^ “ROBERT PATTINSON AUCTIONS OFF SIGNED GUITAR FOR HOMELESS CHARITY”. 1 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  191. ^ Schillaci, Sophie (24 tháng 10 năm 2011). 'Twilight's' Robert Pattinson Charity Donation to Help Educate Teen Girls in Cambodia”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  192. ^ “Robert Pattinson: Cancer Bites”. 1 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  193. ^ “Robert Pattinson Announces Blood Cancer Campaign At Teen Choice Awards”. HuffPost. 8 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  194. ^ “Robert Pattinson Does Arts and Crafts with Kids”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  195. ^ “Robert Pattinson Visits Children's Hospital, Does Arts and Crafts With the Kids”. 2 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  196. ^ “International Medical Corps & Global Ambassador Sienna Miller Launch "First Responders" CGI Commitment to Help Communities in Humanitarian Disasters”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  197. ^ “International Medical Corps & Global Ambassador Sienna Miller Launch "First Responders" CGI Commitment to Help Communities in Humanitarian Disasters”. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  198. ^ “Robert Pattinson Toasted, Bids $5,600 on Recycled Cello at GO GO Gala”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  199. ^ Olivier, Ellen (15 tháng 11 năm 2013). “Robert Pattinson, Adam Shankman, Beth Behrs pitch in at Go Go Gala”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.
  200. ^ “Run the London Marathon with Marysol”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2014.
  201. ^ “Hollywood star's gift”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2014.
  202. ^ “Robert Pattinson steps up to the ALS Ice Bucket Challenge with the tiniest bit of ice ever”. Mirror. 2 tháng 8 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2014.
  203. ^ “GQ Addresses: Robert Pattinson's Off-Kilter Bowl Cut”. GQ. 1 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2014.
  204. ^ “Joe Jonas and Gigi Hadid have a good cryo together; Tom Brady and Gisele Bundchen may do a down and out”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015.
  205. ^ “ROBERT PATTINSON BECOMES GO CAMPAIGN'S FIRST AMBASSADOR”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  206. ^ “Robert Pattinson Helps HFPA Donate $500,000 to Refugee Organization at Cannes Event”. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2019.
  207. ^ “Robert Pattinson hosts annual Go Campaign gala”. Variety.
  208. ^ Kemp, Ella (6 tháng 11 năm 2020). “Robert Pattinson surprised an autistic 'Batman' fan with a special gift”. NME. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2021.
  209. ^ “2008's Sexiest Man Alive”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2009.
  210. ^ “2009's Sexiest Man Alive”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2009.
  211. ^ “Sexiest Men Alive No. 1”. Glamour UK. 5 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2009.
  212. ^ “Top 49 Most Influential Men”. AskMen. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2010.
  213. ^ “Robert Pattinson the Most Handsome Man in the World”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2010.
  214. ^ “Johnny Depp is highest paid actor with £21m deal for next Pirates film”. The Daily Telegraph. London, UK. 17 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2010.
  215. ^ “Robert Pattinson named GQ's Best-Dressed Man”. Glamour UK. tháng 2 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  216. ^ “Robert Pattinson And Cheryl Cole Are Named The Best Dressed of 2010”. Entertainment Wise. Giant Digital. 6 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  217. ^ Staff (28 tháng 4 năm 2010). “World's Most Beautiful”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2010.
  218. ^ “Rich List 2010: Mittal doubles to £22bn, total up 30% to £333.5bn”. Spear's Wealth Management Survey. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  219. ^ Chris Weitz (29 tháng 4 năm 2010). “The 2010 Time 100: Robert Pattinson”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2010.
  220. ^ “The Celebrity 100: No.50 Robert Pattinson”. Forbes. 28 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017.
  221. ^ “Radio 1's Teen Awards winners announced”. BBC. 15 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2011.
  222. ^ Newcomb, Peter (tháng 3 năm 2011). “Hollywood's Top 40”. Vanity Fair. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |https://web.archive.org/web/20120413212910/http://www.vanityfair.com/hollywood/features/2011/03/hollywood-top-earners-201103?currentPage= (trợ giúp)
  223. ^ “Robert Pattinson: GQ Best Dressed Man 2012”. GQ. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012.
  224. ^ Maria Vultaggio (1 tháng 10 năm 2012). “Robert Pattinson is named 'Sexiest Man Alive', beating out other potential Christian Grey favorites”. International Business Times. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  225. ^ “Richest UK Celebs Under 30”. Glamour UK. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2013.
  226. ^ World Film Locations: Toronto. press.uchicago. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
  227. ^ “One Direction Beat Out Daniel Radcliffe to Top U.K. Under 30 Rich List”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2014.
  228. ^ “The 1000 – London's most influential people 2014: The Arts”. London Evening Standard. 1 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  229. ^ “Robert Pattinson declared 'the most handsome man in the world'. CNN entertainment.
  230. ^ “Robert Pattinson doesn't want to talk about his relationships”. Inquisitr.
  231. ^ “Robert Pattinson opens up about having anxiety and going to therapy”. Telegraph UK.
  232. ^ “Robert Pattinson has Covid-19, halting The Batman production”. Vanity Fair.
  233. ^ “Robert Pattinson & Kristen Stewart seen kissing at Kings of Leon concert in Vancouver”.[liên kết hỏng]
  234. ^ Finn, Natalie (20 tháng 5 năm 2013). “Robert Pattinson Moves Stuff Out of Kristen Stewart's House, Leaves With His Dogs”. E!. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2014.
  235. ^ “Robert Pattinson and FKA Twigs Have Officially Broken Up”. Elle. 7 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  236. ^ “Robert Pattinson talks dating and privacy in Hollywood”. The Times UK.
  237. ^ Ovenden, Olivia (23 tháng 7 năm 2020). “The House Instagram Wants To See Inside”. Esquire UK. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  238. ^ “Strasbourg International Film Festival: 2008 Awards”. Strasbourgfilmfest.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2010.
  239. ^ “Ben Stiller & Marissa Tomei Among This Year's Honorees”. hollywoodfest.com. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
  240. ^ “Jameson Empire Awards Announce 2009 Nominees”. Bauer Consumer Media Ltd. 25 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
  241. ^ “Jameson Empire Awards Announce 2010 Nominees”. Bauer Consumer Media Ltd. 25 tháng 2 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  242. ^ “4TH AACTA AWARDS NOMINEES” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.
  243. ^ "Canadian Screen Awards Unveil Nominations" Lưu trữ 16 tháng 2 2015 tại Wayback Machine. The Hollywood Reporter, 15 January 2015.
  244. ^ “The 'Harry Potter' and 'Twilight' star will receive the President's Award at the festival's closing-night gala July 7”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  245. ^ “Robert Pattinson joins Madame Tussauds waxworks”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc 15 tháng Mười năm 2012. Truy cập 20 Tháng tám năm 2021.
  246. ^ “Robert Pattinson to join Madame Tussauds”. MadameTussauds.com. Merlin Entertainment Group. Bản gốc lưu trữ 8 tháng Năm năm 2010. Truy cập 20 Tháng tám năm 2021.
  247. ^ 'Breaking Dawn' stars leave handprints, footprints in Hollywood”. Los Angeles Times. 3 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2014.
  248. ^ “Russian Astronomer Names Asteroid After 'Twilight' Actor”. RIA Novosti. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2014.
  249. ^ “Russia astronomer names asteroid after "Twilight Saga" vampire Pattinson”. Voice of Russia. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Các tộc bài] Runick: Tiếng sấm truyền từ xứ sở Bắc Âu
[Các tộc bài] Runick: Tiếng sấm truyền từ xứ sở Bắc Âu
Trong sử thi Bắc Âu, có một nhân vật hiền triết cực kì nổi tiếng tên là Mímir (hay Mim) với hiểu biết thâm sâu và là 1 kho tàng kiến thức sống
Nhân vật Megumin - Kono Subarashii Sekai ni Shukufuku wo
Nhân vật Megumin - Kono Subarashii Sekai ni Shukufuku wo
Megumin (め ぐ み ん) là một Arch Wizard của Crimson Magic Clan trong Thế giới Ảo, và là người đầu tiên tham gia nhóm của Kazuma
Kazuha - Sắc lá phong đỏ rực trời thu
Kazuha - Sắc lá phong đỏ rực trời thu
Kazuha là một Samurai vô chủ đến từ Inazuma, tính tình ôn hòa, hào sảng, trong lòng chất chứa nhiều chuyện xưa
Review Phim:
Review Phim: "Gia Tài Của Ngoại" - Khi "Thời Gian" Hóa Thành "Vàng Bạc"
Chắc hẳn, dạo gần đây, "How to Make Millions Before Grandma Dies" hay "หลานม่า" (Lahn Mah) đã trở thành cơn sốt điện ảnh Đông Nam Á