Scarus falcipinnis

Scarus falcipinnis
Cá cái
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Scaridae
Chi (genus)Scarus
Loài (species)S. falcipinnis
Danh pháp hai phần
Scarus falcipinnis
(Playfair, 1868)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Pseudoscarus falcipinnis Playfair, 1868
  • Callyodon improvisus Smith, 1956
  • Callyodon pindae Smith, 1956

Scarus falcipinnis là một loài cá biển thuộc chi Scarus trong họ Cá mó. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1868.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài được ghép bởi hai từ trong tiếng Latinh: falcatus ("có hình lưỡi liềm") và pinnis ("vây"), hàm ý đề cập đến hình dạng vây đuôi của cá đực[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

S. falcipinnis được ghi nhận ở bờ biển phía nam Oman và dọc theo bờ biển Đông Phi đến Mozambique (ghi nhận ở Somalia cần được xem xét lại), bao gồm các đảo quốc ở phía đông là Madagascar, Comoros, Seychelles, Réunion, Mauritius (và cả Rodrigues), xa hơn là đến quần đảo Chagos[1][3].

Môi trường sống của S. falcipinnis là các rạn san hô viền bờ, độ sâu đến ít nhất là 25 m[1].

S. falcipinnis có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 60 cm[3]. Vây đuôi lõm ở cá cái và cá đực; cá đực có hai thùy đuôi dài tạo thành hình lưỡi liềm ở cá đực. Cá đực còn có thêm răng nanh ở phía sau phiến răng của hàm trên[4].

Cá cái có màu ô liu xám; vảy trên thân viền nâu. Thân lốm đốm nhiều chấm trắng, tập trung nhiều ở thân sau. Đầu có màu cam nhạt, chuyển sang đỏ tươi ở xung quanh miệng và bụng. Phiến răng trắng. Thân sau có nhiều chấm xanh óng[4]. Cá đực có màu xanh lục lam sẫm, vảy có viền màu cam. Má có một vùng màu xanh lục lam sáng, tách thành hai sọc kéo dài lên mõm và dưới cằm, vùng màu xanh này còn lan rộng xuống ngực và bụng, cũng như vây hậu môn và kết thúc ở rìa dưới cuống đuôi. Phiến răng màu xanh[4].

Số gai vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15–16[4].

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của S. falcipinnis chủ yếu là tảo. Loài này thường sống thành đàn và tập trung trên các rạn san hô. Tuổi thọ tối đa được ghi nhận ở S. falcipinnis là 10 năm tuổi[1].

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

S. falcipinnis được đánh bắt để làm thực phẩm, chủ yếu được tiêu thụ tại địa phương[3]. Chúng không phải là loài được nhắm mục tiêu thương mại[1].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e R. Myers và cộng sự (2012). Scarus falcipinnis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2012: e.T190722A17784395. doi:10.2305/IUCN.UK.2012.RLTS.T190722A17784395.en. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (i-x)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Scarus falcipinnis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2021.
  4. ^ a b c d John E. Randall (1995). Coastal Fishes of Oman. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 296. ISBN 978-0824818081.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Review Phim:
Review Phim: "Gia Tài Của Ngoại" - Khi "Thời Gian" Hóa Thành "Vàng Bạc"
Chắc hẳn, dạo gần đây, "How to Make Millions Before Grandma Dies" hay "หลานม่า" (Lahn Mah) đã trở thành cơn sốt điện ảnh Đông Nam Á
Công thức nước chấm thần thánh
Công thức nước chấm thần thánh
Nước chấm rất quan trọng trong bữa ăn cơm của người Việt Nam. Các bữa cơm hầu như không thể thiếu nó
Tại sao Hamas lại tấn công Israel?
Tại sao Hamas lại tấn công Israel?
Vào ngày 7 tháng 10, một bình minh mới đã đến trên vùng đất Thánh, nhưng không có ánh sáng nào có thể xua tan bóng tối của sự hận thù và đau buồn.
Genius - Job Class siêu hiếm của Renner
Genius - Job Class siêu hiếm của Renner
Renner thì đã quá nổi tiếng với sự vô nhân tính cùng khả năng diễn xuất tuyệt đỉnh và là kẻ đã trực tiếp tuồng thông tin cũng như giúp Demiurge và Albedo