Ban lãnh đạo | |
Chánh án | Khampha Sengdara |
---|---|
Cơ cấu tổ chức | |
Cơ quan chủ quản | Quốc hội |
Cấp hành chính | Cấp Trung ương |
Văn bản Ủy quyền | Hiến pháp Lào Luật Tòa án Nhân dân Lào |
Phương thức liên hệ | |
Trụ sở | |
Địa chỉ | Trụ sở Tòa án Nhân dân Tối cao, đường Khouvieng, Viêng Chăn, Lào |
Lịch sử | |
Thành lập | 15/8/1982 |
Bài này nằm trong loạt bài về: Chính trị và chính phủ Lào |
Hiến pháp |
Tòa án Nhân dân Tối cao Lào (tiếng Lào: ສານປະຊາຊົນສູງສຸດ ລາວ, San Pasason Sungsud Lao) là cơ quan tối cao trong ngành tư pháp tại Lào, đồng thời là cơ quan xét xử tối cao tại Lào.
Sau khi xóa bỏ chế độ quân chủ Lào, ban đầu chưa kịp thời thiết lập tổ chức Tòa án nhân dân nên tạm thời cơ quan tiến hành tố tụng là Bộ Tư pháp do Vụ Tư pháp, Bộ Tư pháp chủ trì hướng dẫn xem xét việc tiến hành ở từng địa phương theo lệnh số 53/Thủ tướng Chính phủ ngày 15 tháng 10 năm 1976 về việc bắt, điều tra và quyết định người phạm tội có căn cứ để xét ra bản án, được chia làm 3 bước:
Nói chung do ban đầu chưa có tổ chức tòa án thường trực nên khi phát sinh vụ án thì chỉ định toà án để xét xử vụ án đến khi tuyên án. Trên thực tế, hầu hết các vụ án đều là những vụ án hình sự liên quan đến tội danh phản cách mạng và những tội danh xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân lao động. Đây được coi là một bước xuất hiện của hệ thống tòa án nhân dân.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế, xã hội, cần tăng cường quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp quyền từng bước đơn giản và chuyên nghiệp hơn. Hội đồng nghiên cứu nghiệp vụ của Bộ Tư pháp đã có tờ trình gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác tổ chức Tòa án xét xử.
Đảng và Nhà nước thống nhất thành lập tòa án nhân dân vào ngày 15 tháng 8 năm 1982 theo Nghị quyết số 01/83/QH ngày 11 tháng 01 năm 1983 của Ủy ban thường vụ Hội đồng Nhân dân tối cao khóa I. Đồng thời, Oun Nuea Phimmasone được bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh án Tòa án tối cao, ông được giao soạn thảo cơ cấu tổ chức, điều lệ Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Hội đồng nhân dân tối cao xem xét. Ban đầu, Tòa án nhân dân tối cao được gọi là "Tòa án tối cao", sau đổi tên thành Tòa án nhân dân tối cao theo Nghị quyết số 74/NA ngày 30 tháng 12 năm 1983 của Hội đồng nhân dân tối cao.
Việc thành lập Tòa án nhân dân tối cao được tách từ Vụ Tư pháp thuộc Bộ Tư pháp để hình thành Tòa án nhân dân tối cao, dẫn đến tổ chức Tòa án Trung ương, tiền thân là Vụ Tư pháp trực thuộc Tòa án Nhân dân Tối cao. Ở cấp địa phương, các toà án nhân dân được thành lập trực thuộc sở tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và huyện, tất cả đều thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp. Nhiệm vụ chính của toà án nhân dân lúc bấy giờ là xét xử công bằng và bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và nhân dân các dân tộc Lào.
Bước đầu, tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân gặp nhiều khó khăn, thách thức, phải thử thách nhiều mặt như: nhân viên chưa có nơi làm việc chỉ công tác trong 1/3 tòa nhà của Bộ Tư pháp làm việc, không đủ nhân viên, thiếu phương tiện, trang thiết bị, ngân sách ứng phó, chưa có luật làm cơ sở và một số binh lính, hành chính, cảnh sát và công chức thuộc chế độ quân chủ vẫn có tư tưởng chống đối,...
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng do chủ trương đúng đắn, thận trọng của Đảng, được sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo nhà nước, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao quan tâm giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân ngày càng nâng cao trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, nêu cao tinh thần yêu nước, yêu dân chủ nhân dân, giúp cho tòa án nhân dân vượt qua khó khăn, tích cực vận động góp phần thực hiện hai chiến lược giải quyết xung đột, các hành vi vi phạm pháp luật và các vấn đề nảy sinh đã được giải quyết và giảm dần, đem lại sự bình yên cơ bản trong xã hội.
Năm 1986, Đảng và Chính phủ áp dụng chính sách thay đổi toàn diện, đưa kinh tế - xã hội đất nước phát triển nhanh chóng, những vướng mắc, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Vì vậy, hệ thống tòa án nhân dân cần được hoàn thiện.
Ngày 23 tháng 12 năm 1989, Luật đầu tiên về Tòa án nhân dân được thông qua tại Kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa II và chính thức được ban hành bằng Nghị định số 06/PCT ngày 09 tháng 01 năm 1990 của Chủ tịch nước. Thiết lập tổ chức đồng thời Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thành phố, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự; là cơ quan xét xử của Nhà nước. Từ đó các tòa án đã được thành lập một cách rõ ràng, đặc biệt là ở cấp địa phương. Tuy nhiên, việc tổ chức và điều hành tòa án nhân dân lúc đó thuộc về Bộ Tư pháp, với Chánh án tòa án nhân dân địa phương làm Phó giám đốc sở tư pháp tỉnh, thành phố, huyện.
Căn cứ vào vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ được quy định trong Hiến pháp và Pháp luật, cụ thể là Điều 2 Luật Tòa án nhân dân quy định “Ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, chỉ có các Tòa án mới có thẩm quyền xét xử trên cơ sở tôn trọng pháp luật". Chặt chẽ phân chia thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân các cấp:
Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ đó, sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp đối với các hoạt động của Tòa án nhằm đảm bảo cho việc thực thi nhiệm vụ được toàn diện, bảo đảm công tác tư pháp bằng việc tập trung giải quyết các vụ án ở từng cấp được công bằng, tránh lợi dụng kẽ hở của pháp luật, lợi dụng nhà nước trong xã hội; Đồng thời, cơ chế tố tụng cần được xây dựng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Lào ngày càng phát triển nhanh chóng, mâu thuẫn xã hội ngày càng nhiều và phức tạp, đòi hỏi phải có cơ quan tố tụng hoàn thiện hơn, dễ dàng hơn.
Năm 2003, hệ thống tòa án nhân dân đã được cải tiến bằng việc thành lập ba tòa phúc thẩm và chuyển các tòa án nhân dân địa phương từ thẩm quyền của Bộ Tư pháp sang thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao. Làm cho hệ thống tổ chức của tòa án nhân dân thời kỳ này gồm có Tòa án nhân dân tối cao; Tòa phúc thẩm; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án cấp quận, huyện, thành phố, thị xã.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống tổ chức, cơ chế tố tụng cũng được cải tiến để xử lý gọn nhẹ, đi sâu vào từng vấn đề một cách chính xác và công bằng bằng cách tách Tòa án thành 5 tòa án: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa thương mại, Tòa án Gia đình và Tòa án Vị thành niên.
Cùng với sự phát triển của hệ thống toà án, sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào phát triển nhanh chóng vào năm 2009, Chính phủ Lào đã nghiên cứu và đưa ra chiến lược xây dựng pháp luật. Vì vậy, Tòa án nhân dân đã rà soát lại vai trò, quyền hạn, trách nhiệm và hệ thống tổ chức để đưa hoạt động phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào và hội nhập quốc tế, khu vực.
Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao đã đề ra việc hoàn thiện và phát triển hệ thống tòa án nhân dân; Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 113/QH ngày 28/5/2009 về việc hợp nhất Tòa án nhân dân khu vực và cấp huyện thành Tòa án nhân dân khu vực (thành phố thuộc tỉnh, thị xã) và tăng thẩm quyền xét xử vụ án của Tòa án nhân dân cấp huyện, Nghị quyết số 179/QH ngày 05/10/2009 về việc đổi tên Tòa phúc thẩm thành Tòa án nhân dân cấp cao (còn được gọi là tòa án nhân dân miền) và sửa đổi luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án như Luật Tòa án nhân dân đã được sửa đổi và thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2009. Điều 2 quy định "Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp quyết định vụ án". Bằng cách phân chia thẩm quyền của vụ việc:
Hiện tại của toà án nhân dân ở Lào gồm: 01 Tòa án nhân dân tối cao, 03 Tòa án nhân dân cấp cao (miền), 17 Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 39 Tòa án nhân dân khu vực, 01 Tòa án quân sự cấp cao, 03 Tòa án quân sự khu vực. Tòa án Nhân dân Tối cao là cơ quan quản lý toàn diện các toà án nhân dân cấp dưới.
Tòa án Nhân dân Tối cao có vai trò xét xử các vụ án, quản lý tổ chức các tòa án nhân dân và giám sát công việc hành chính các tòa án địa phương và các tòa án quân sự do luật.
Tòa án Nhân dân Tối cao thẩm tra các bản án, quyết định của các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự.
Tòa án Nhân dân Tối cao gồm:
Tòa án Nhân dân Tối cao có quyền hạn và nhiệm vụ sau: