Thượng viện วุฒิสภา Wutthisapha | |
---|---|
XII | |
Dạng | |
Mô hình | |
Lãnh đạo | |
Pornpetch Wichitcholchai Từ 28 tháng 5 năm 2019 | |
Phó Chủ tịch thứ nhất | Singsuek Singphrai Từ 28 tháng 5 năm 2019 |
Phó Chủ tịch thứ hai | Supachai Somcharoen Từ 28 tháng 5 năm 2019 |
Cơ cấu | |
Số ghế | 250 |
Chính đảng | Không đảng phái (250) |
Ủy ban | 27 ủy ban |
Nhiệm kỳ | 5 năm |
Tiền lương | Chủ tịch: ฿119,920/tháng Phó Chủ tịch: ฿115,740/tháng Thượng nghị sĩ: ฿113,560/tháng |
Bầu cử | |
Bầu cử vừa qua | 30 tháng 3 năm 2014 (Kể từ khi Hiến pháp 2017 được ban hành, bãi bỏ bầu cử) |
Trụ sở | |
Sappaya-Sapasathan | |
Trang web | |
www.senate.go.th |
Bài này nằm trong loạt bài về: Chính trị và chính phủ Thái Lan |
|
Bầu cử |
|
Thượng viện Thái Lan(tiếng Thái: วุฒิสภา, Wutthisapha; tên cũ là Phruetthasapha hoặc "พฤฒสภา") là thượng viện của Quốc hội Thái Lan. Theo Hiến pháp năm 2017 của Thái Lan quy định Thượng viện là cơ quan lập pháp không đảng phái, bao gồm 250 thành viên.[1] Tất cả 250 thượng nghị sĩ đều do Quân đội Hoàng gia Thái Lan bổ nhiệm. Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 5 năm.[2] [3]
Cả Thượng viện và Hạ viện đều bị bãi bỏ sau cuộc đảo chính Thái Lan năm 2014. Các cơ quan nay được thay thế bằng Hội đồng Lập pháp Quốc gia Thái Lan đơn viện, một cơ quan gồm 250 thành viên do Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia Thái Lan chỉ định. Hiến pháp năm 2017 được thông qua sau cuộc trưng cầu dân ý vào năm 2016, quy định Thượng viện gồm 250 thành viên, không được bầu mà được chỉ định bởi một ủy ban đặc biệt, ủy ban này do quân đội chỉ định. Do đó, Thượng viện thường được coi là cơ quan phê chuẩn cho các quyết định đã được phía quân đội đưa ra.[4][5]
Hình thức Lưỡng viện được lựa chọn tại bản Hiến pháp năm 1946, dười thời Thủ tướng Pridi Panomyong. Thượng viện của Thái Lan chính thức ra đời theo hình thức như lưỡng viện nước Anh. Thượng viện được bầu theo hình thức gián tiếp thông qua Hạ viện với nhiệm kỳ 6 năm. Hiến pháp năm 1946 nhanh chóng bị xóa bỏ sau cuộc đảo chính quân sự. Hiến pháp tiếp theo Lưỡng viện chỉ thỉnh thoảng xuất hiện, và khi được tồn tại thì Thượng viện đều do quân đội và nhóm đặc quyền chiếm giữ. Hiến pháp năm 1997 Thượng viện được bầu hoàn toàn trở lại. Sau đó Hiến pháp bị xóa bỏ bởi cuộc đảo chính 2006, và Thượng viện được thông qua hình thức nửa bầu nửa chỉ định.
Tiêu chuẩn của Thượng nghị sĩ được ghi tại điều 108 Hiến pháp năm 2017.
Ứng viên chức danh thượng nghị sĩ được chỉ định phải đủ các tiêu chuẩn sau đây:
Ứng viên chức danh thượng nghị sĩ thông qua bầu cử phải đủ các tiêu chuẩn sau đây:
Tiêu chuẩn chung của Thượng nghị sĩ được bầu hay chỉ định là: không nghiện ma túy, bị phá sản, bị kết án; không là thành viên của chính quyền địa phương, công chức, thành viên của ngành tư pháp hoặc bất cứ một cơ quan nào của chính phủ; không mất quyền công dân (là giáo sĩ, bị kết án, hay tàn tật). Nếu ứng cử viên là thành viên của chính quyền địa phương hoặc Bộ trưởng, phải rời khỏi nhiệm sở ít nhất là 5 năm.
Thượng viện gồm 250 người bao gồm 194 thượng nghị sĩ do Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia lựa chọn. 50 thượng nghị sĩ được bầu sau một quá trình thương lượng liên nhóm giữa các nhóm xã hội và chuyên gia khác nhau đại diện cho 10 nhóm: quan chức, giáo viên, thẩm phán, nông dân và công ty tư nhân. Một danh sách rút gọn gồm 200 người đã được đề xuất cho Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia để đưa ra lựa chọn cuối cùng là 50 người. 6 thượng nghị sĩ còn lại được dành cho Tư lệnh Lục quân, Tư lệnh Hải quân, Tư lệnh Không quân, Tổng tham mưu trưởng Quân đội cấp cao, Thư ký thường trực Bộ Quốc phòng và Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, tất cả đều là thượng nghị sĩ mặc nhiên. Tính đến năm 2020, 104 trong số 250 thượng nghị sĩ là sĩ quan quân đội hoặc cảnh sát.[6]
Nhiệm kỳ của Thượng viện là 5 năm kể từ ngày kết quả bầu cử được công bố.[2] Nhiệm kỳ cố định, do đó Thượng viện không thể bị giải tán trong bất kỳ trường hợp nào và sẽ được bầu lại theo Sắc lệnh Hoàng gia ban hành ba mươi ngày sau khi nhiệm kỳ kết thúc.
Tư cách thành viên Thượng viện bắt đầu vào ngày Ủy ban bầu cử công bố kết quả lựa chọn.
Khi Thượng viện kết thúc nhiệm kỳ, các Thượng nghị sĩ vẫn tại chức để thi hành nhiệm vụ cho đến khi có Thượng nghị sĩ mới.
Thượng viện gồm có 1 Chủ tịch và 2 Phó Chủ tịch. Chủ tịch Thượng viện kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Quốc hội Thái Lan. Cuộc bầu cử được thực hiện bằng bỏ phiếu kín, sau khi nghị quyết hoàn thiện việc lựa chọn, quan chức đã đươc bầu được đệ trình lên nhà vua để bổ nhiệm chính thức. Không có quan chức đảng phái nào trong Thượng viện vì Thượng viện Thái Lan là một viện phi đảng phái.[7][8]
Các thành viên của Thượng viện được quyền sử dụng danh hiệu Thượng nghị sĩ trước tên của họ (tiếng Thái: สมาชิกวุฒิสภา hoặc ส.ว.). Tư cách thành viên của một Thượng nghị sĩ được bầu bắt đầu vào ngày bầu cử thượng viện, trong khi một thượng nghị sĩ được chỉ định trở thành thành viên sau khi Ủy ban Bầu cử công bố kết quả bầu cử. Các thượng nghị sĩ không thể giữ nhiều hơn một nhiệm kỳ liên tiếp, do đó các thượng nghị sĩ không thể được bầu lại. Một Thượng nghị sĩ mất tư cách thành viên khi một Thượng nghị sĩ mới có thể được bổ nhiệm vào ghế đó để thay thế. Nếu có một chỗ trống, chiếc ghế đó sẽ ngay lập tức được lấp đầy bằng bầu cử hoặc bổ nhiệm.
Thượng viện chia sẻ nhiều quyền hạn, nếu không muốn nói là nhiều hơn Hạ viện; bao gồm:
Quyền hạn độc bản: