Bài này cần sửa các lỗi ngữ pháp, chính tả, giọng văn, tính mạch lạc, trau chuốt lại lối hành văn sao cho bách khoa. |
Một phần của loạt bài về |
Thực dân châu Âu tại châu Mỹ |
---|
Cổng thông tin Lịch sử |
Thuộc địa Tây Ban Nha ở Châu Mỹ dùng để chỉ tên tập thể của các thuộc địa thuộc sở hữu của Tây Ban Nha tại châu Mỹ từ cuối thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Trong ba thế kỷ mà Cristoforo Colombo đổ bộ vào châu Mỹ vào năm 1492, Tây Ban Nha tiếp tục chinh phục và xâm chiếm lục địa Mỹ và Caribe, chiếm hầu hết các đảo Caribe (Tây Ấn), México và hầu hết các vùng của Nam Mỹ, người Mỹ trung tâm khu vực, Bắc Mỹ, phía tây Thái Bình Dương bờ biển (trực tiếp tại Alaska[1]) và nội địa trung Bắc Mỹ. Đầu thế kỷ 19, các phong trào độc lập nổ ra ở Tây Mỹ và Tây Ban Nha mất các thuộc địa trên lục địa Mỹ. Thất bại của Tây Ban Nha trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ năm 1898 khiến nước này mất Cuba và Puerto Rico trên biển Caribe và cuối cùng chấm dứt sự thống trị của thực dân Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Các quốc gia mới chuyển đổi từ các thuộc địa ban đầu của Tây Ban Nha. Về cơ bản kế thừa tiếng Tây Ban Nha và tôn giáo, và bây giờ Mỹ Latinh đã trở thành một phần của văn hóa Tây Ban Nha (Mỹ Latinh cũng bao gồm Brasil và cựu thuộc địa Bồ Đào Nha khác thuộc thuộc khu vực này).
Từ năm 1535, để cai trị châu Mỹ, Tây Ban Nha đã thành lập bốn phó vương quốc:
Ngoài ra, còn có Chính phủ Dudu thuộc văn phòng phó vương. Có bốn Chính phủ thủ đô ở Nam Mỹ: Guatemala (1527), Cuba (1777), Venezuela (1773) và Chile (1778). Năm 1764, Tây Ban Nha đã ra mắt Hệ thống thẩm vấn Hoàng gia ở các thuộc địa của Mỹ, với 12 nhà thẩm vấn mới ở Tây Ban Nha và 8 nhà thẩm vấn ở La Plata. Sau Chiến tranh giành độc lập Tây Mỹ, chính quyền tương ứng và các bộ phận hành chính khác đã không còn tồn tại, nhưng nó ảnh hưởng sâu sắc đến ranh giới và phân chia hành chính giữa các quốc gia độc lập mới.