Tiếng Khương
| |
---|---|
Sắc tộc | người Khương |
Phân bố địa lý | Tứ Xuyên |
Phân loại ngôn ngữ học | Hán-Tạng |
Ngữ ngành con | |
Glottolog: | qian1264[1] |
Tiếng Khương, còn được gọi là Rma (尔玛) hoặc Rme [2] bởi các người nói ngôn ngữ này, là một cụm ngôn ngữ Hán-Tạng của nhóm ngôn ngữ Khương nói bởi khoảng 140.000 người ở phía Trung Bắc của tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.
Tiếng Khương bao gồm:
Vào năm 2017, chữ Rma, phát minh ra bởi Nguy Cửu Kiều (魏久乔), đã hoàn thiện chính thức và chấp nhận bởi nhiều người Khương là hệ thống chữ viết chính thức đầu tiên cho ngôn ngữ của họ.[3] Không có thông tin được công bố liên quan đến liệu chữ viết này tương thích cho cả hai tiếng Khương Bắc và tiếng Khương Nam hoặc nó chỉ tương thích cho một trong hai ngôn ngữ. Hệ chữ viết này cũng đã được đưa ra một đề xuất sơ bộ để mã hóa nó thành Bộ ký tự chung của Unicode.[4]
a /a/ |
ae /æ/ |
ea /e/ |
u /u/ |
e /ə/ |
nn /◌̃/ |
i /i/ |
ü /y/ |
o /o/ |
/ʔ/ |
r /ʴ/ |
— |
Sims (2017)[5] tái tạo thanh điệu cho tiếng Rma nguyên thủy (gọi cách khác là tiếng Khương nguyên thủy), đề xuất rằng sự thiếu thanh điệu trong tiếng Khương Bắc là do sự ảnh hưởng của tiếng Tạng. Thanh cao và thanh thấp được tái tạo cho tiếng Rma nguyên thủy, và cho tiếng Phổ Mễ nguyên thủy.