Trương Công Giai | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 19 tháng 11, 1665 |
Nơi sinh | Hà Nam |
Mất | 8 tháng 2, 1728 |
Giới tính | nam |
Gia quyến | |
Thân phụ | Trương Chí Tường |
Quốc tịch | nhà Lê sơ |
Trương Công Giai (19 tháng 11 năm 1665 - 8 tháng 2 năm 1728) là vị quan thời Hậu Lê, được phong đến chức Thượng thư bộ hình. Ông được biết đến là một trong 3 tiến sĩ trẻ nhất trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến Việt Nam.[1] Trương Công Giai làm quan, phục vụ đất nước trải qua nhiều trọng trách khác nhau, từ Tự khanh, Đô ngự sử đến chức Công bộ Thượng thư, Hình bộ Thượng thư, được phong tặng tước Lỵ Quận công, khi mất được tặng hàm Thiếu bảo. Đặc biệt, ông có thời gian dài kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục của Đại Việt.[2]
Trương Công Giai sinh ngày 19 tháng 11 năm 1665 tại làng Thiên Kiện, xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Cha là Trương Chí Tường, một danh y nổi tiếng gần xa, dạy bảo, cho học hành chu tất. Trương Công Giai ra đời trong hoàn cảnh nhà Lê đã giành lại ngôi báu từ nhà Mạc. Năm 20 tuổi, ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi năm Ất Sửu - 1685 đời vua Lê Hy Tông.[3]
Trong bảng vàng, tên đứng thứ nhất và ông là một trong 13 người đỗ tiến sĩ khi mới 20 tuổi. Theo các giai thoại còn lưu truyền đến ngày nay, Trương Công Giai lúc nhỏ được người đương thời gọi là thần đồng bởi học tài, thông kinh thấu chữ, ứng xử tài hoa.
Sau khi thi đỗ tiến sĩ, vua Lê Hy Tông bổ nhiệm Trương Công Giai vào làm việc ở cơ quan trung ương. Theo sách Lịch triều tạp kỷ lại ghi: Tháng 3 năm Đinh Hợi (1707) phong Tự khanh Trương Công Giai làm chức Công bộ Hữu thị lang. Tháng 3 năm Tân Mão (1711), Trương Công Giai giữ chức Phó đô Ngự sử. Năm Mậu Tuất (1718), tháng giêng mùa xuân mở khoa thi cử nhân, tri cống cử Đô Ngự sử Trương Công Giai nhập kỳ thi diên bồi tụng, Thượng trung thư giám cẩm Sơn Nam. Sau đó, ông được giữ chức Thượng trụ quốc Thượng trật tướng công. Tháng sáu năm Canh Tý (1720), ông được thăng tiến chức Thượng thư bộ Hình.[4]
Theo sử cũ, ông mất ngày mồng 8-2-1728 - năm Mậu Thân thọ 63 tuổi, thi hài được ướp quàn tại viện Thiên Thanh. Sau 100 ngày ông mất thì được đưa về quê cho dân làng và gia tộc kính viếng và 7 ngày sau mới đưa đi an táng tại lưng núi A Hồ.[5]
Thượng thư tiến sĩ Trương Công Giai có 2 bài thơ được nhà xuất bản Khoa học xã hội in và phát hành năm 2008:
歲六十三
|
Tuế lục thập tam
|
Tuổi sáu mươi ba
|
春
|
Xuân
|
Dịch nghĩa
|
Con trai trưởng của Trương Công Giai là Triều liệt Đại phu Quan Tiến lộc Trương Luận Xuyên đã cung kính chép về người cha của mình như sau:
Bốn chữ đại tự do chính tay ông viết lên bức hoành phi treo trước cửa công đường nơi ông thực thi công việc rất nổi tiếng cho muôn đời. Đó là 4 chữ “Quan Tiết Bất Đáo”, có nghĩa: quan thanh liêm và khí tiết không nhận của gian phi.
Hà Nội có đường Trương Công Giai dài 670m, rộng 8m, đoạn từ ngã tư Trần Quý Kiên - Cầu Giấy đến ngã ba giao cắt phố Thành Thái (cạnh công viên Cầu Giấy).
Đền chính thờ Trương Công Giai nằm ở xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.[6]
Trương Công Giai cũng được thờ tại di tích Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Nhà thờ họ Trương Việt Nam là nơi thờ các bậc tiền hiền người họ Trương đã khuất tại ban thờ công đồng. Trong hậu cung có tượng thờ những người họ Trương tiêu biểu nhất thời phong kiến gồm: chính cung thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (Trương Hữu Nhân), Tả vu có tượng thờ các vị quan văn nổi tiếng nhất: Thái phó Trương Hán Siêu, Trạng nguyên Trương Xán, Thái sư Trương Đăng Quế, Thượng thư Trương Công Hy, Đông các học sĩ Trương Quốc Dụng, Thượng thư Trương Công Giai, Trạng nguyên Trương Hanh; Hữu vu có tượng thờ các vị quan võ nổi tiếng nhất: Tướng Trương Hống, Tướng Trương Hát, Tăng lục võ sư Trương Ma Ni, Đại tướng quân Trương Minh Giảng, Anh hùng thủ lĩnh Trương Định, Tướng Trương Chiến, Tướng Trương Nữu.