Trương Đăng Quế 張登桂 | |
---|---|
Ảnh truyền thần | |
Chức vụ | |
Kinh lược sứ Nam kỳ | |
Nhiệm kỳ | 1836 – |
Thượng thư Bộ binh, sung Cơ mật viện đại thần | |
Nhiệm kỳ | 1831 – |
Thượng thư Bộ lễ | |
Nhiệm kỳ | 1839 – |
Văn Minh Đại học sĩ kiêm Quốc sử quán Tổng tài | |
Nhiệm kỳ | 1841 – |
Nhiệm kỳ | 1847 – |
Nhiệm kỳ | 1848 – |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 1793 Làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, Đại Việt.[1] |
Mất | 1865 |
Vợ | Ngọc Lê Quận chúa |
Cha | Trương Đăng Phác |
Mẹ | Đỗ Thị Thiết |
Họ hàng | Nham Lĩnh bá Trương Đăng Trường (tổ 6 đời) Đô đốc Trương Đăng Đồ (chú ruột) |
Trương Đăng Quế (chữ Hán: 張登桂, 1793-1865), tự: Diên Phương, hiệu: Đoan Trai, biệt hiệu: Quảng Khê; là danh thần trải 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. Trong 43 năm làm quan, có 20 năm ông giữ trọng trách lớn (có hai lần nhận di chiếu tôn phò vua mới). Ngoài ra, ông còn là nhà thơ, nhà sử học, là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương.
Ông thi đỗ hương tiến khoa Kỷ Mão (1819) và là người khai khoa của phủ Quảng Ngãi, nay là tỉnh Quảng Ngãi.[2] Cháu nội của ông là Trương Đăng Trình, trở thành người đỗ tiến sĩ nho học đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi. Hậu duệ của ông 2 đời được Nhà Nguyễn gả công chúa, con trai trưởng Trương Quang Trụ lấy An Mỹ công chúa Huy Nhu (con vua Thiệu Trị), con của Quang Trụ và Huy Nhu là Trương Quang Chử lấy Phúc Lâm Công chúa Nhàn Gia (con vua Dục Đức).[3].
Trương Đăng Quế sinh ngày 1 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) tại làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Khê, Thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi [4].
Tiên tổ của ông là người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm Lê Hy Tông thứ 10 (1622), tổ đời thứ sáu là Trương Đăng Trường vào Nam, làm quan đến Cai quản, tước Nham Lĩnh bá. Nhân thế, ông Trường làm nhà ở tại làng Mỹ Khê.
Trải qua bốn đời truyền nối làm quan, đến đời cha ông Quế là Trương Đăng Phác, làm Tri phủ cho triều Tây Sơn. Vợ ông Phác là bà Đỗ Thị Thiết, sinh hạ được 8 người con (4 trai, 4 gái), trong đó Trương Đăng Quế là người con thứ 5.
Thuở nhỏ, Trương Đăng Quế có tiếng văn hay. Năm 1801, khi ông lên tám tuổi thì cha mất. Tuy nhiên, nhờ chăm học nên đến năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), ông đỗ Hương tiến (tức Cử nhân, là học vị cao nhất lúc bấy giờ). Theo sử Nguyễn thì ông chính là người đầu tiên ở Quảng Ngãi đạt được học vị này [5].
Ban đầu, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Lễ dưới triều Gia Long. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông được thăng Biên tu. Tháng 5 (âm lịch) năm đó, nhà vua sai Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Hữu Thận lựa người nào học hạnh thuần cẩn, sung làm Hoàng tử trực học để dạy các hoàng tử. Trương Đăng Quế, Doãn Văn Xuân và Ngô Hữu Vĩ liền được cử lên và được dùng[6].
Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Thị độc sung Tán Thiện (1826), Thượng bảo thiếu khanh quản lý phòng văn thư (1828), Thị lang bộ Công sung làm việc ở Nội các (1830); lại đổi sang bộ Lễ sung chức khảo trong kỳ xét hạch giáo chức các tỉnh tại Quốc Tử Giám ở Huế (tháng 6 năm 1830).
Năm 1831, vua Minh Mạng sai ông đi Bắc Thành điểm ngạch sổ binh, khi về được nhắc lên Tham tri bộ Hộ kiêm quản Vũ khố, sung chức Độc quyển thi trong kỳ thi Đình. Tiếp theo, thăng ông lên làm Thượng thư bộ Binh, kiêm giữ ấn triện viện Đô sát, sung Cơ mật viện đại thần.
Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh chống Nguyễn ở Gia Định. Là Thượng thư bộ Binh, Trương Đăng Quế lo trù tính phương cách đối phó. Đến tháng 7 năm 1835, cuộc nổi dậy này bị đánh dẹp, xét công, ông được thưởng hàm Thái tử thiếu bảo, sung Chủ khảo kỳ thi Hội.
Đầu năm 1836, nhà vua chọn ông làm Kinh lược đại thần đi kinh lý 6 tỉnh Nam Kỳ. Hoàn thành tốt công việc, ông được khen và được thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện, nhưng vẫn coi giữ bộ Binh.
Khoảng thời gian ấy có Quách Tất Công và Quách Tất Tại, sau khi bị đánh thua trong cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương ở vùng Hòa Bình, lại tôn phò Lê Duy Hiển khởi binh chống Nguyễn ở Thanh Hóa. Quan quân đánh dẹp mãi không xong. Thấy vậy, Trương Đăng Quế bèn xin đi, được vua sung chức Kinh lược sứ tỉnh Thanh Hóa (cuối năm 1836). Thắng trận trở về, ông được gia thưởng Kỷ lục quân công (1837). Cũng trong năm này, ông được cử quản lý Khâm thiên giám.
Năm 1838, cho ông kiêm coi Quốc tử giám ở Huế, lại sung làm Chủ khảo kỳ thi Hội và Độc quyển kỳ thi Đình.
Năm 1839, tấn phong ông là Tuy Thịnh nam, sau lại kiêm giữ ấn triện bộ Lễ.
Năm 1840, sung ông chức Tổng lý coi việc làm lăng của vua. Cũng trong năm này, ông nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn phò Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị) lên ngôi.
Năm 1841, tháng giêng, vua Minh Mạng đau nặng. Sách Đại Nam Thực Lục do các sử quan triều Nguyễn ghi chép đã thuật lại sự tình:
Ngày ất Hợi, vua bị ốm, ngày Giáp Thân bệnh rất kịch. Cho vời hoàng tử, các thân công và Cơ mật viện đại thần là Trương Đăng Quế vào hầu. Bèn sai Đăng Quế cầm nến đến trước giường vua nằm, dụ rằng : "Hoàng tử là Trường Khánh công lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi, nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng hết sức giúp rập, hễ việc gì chưa hợp lẽ, ngươi nên dẫn lời nói của ta mà can gián : Ngươi trông mặt ta, nên ghi nhớ lấy". Lại ngoảnh trông hoàng trưởng tử là Trường Khánh công, cầm lấy tay trối trăng rằng : "Trương Đăng Quế thờ ta đến nay là 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là một người công thần kỳ cựu của triều đình, ngươi nên đãi ngộ một cách ưu hậu, hễ nói gì phải nghe, bày mưu kế gì phải theo, ngày sau có thể được theo thờ vào nhà Thế thất"(Thế Thất : tức là Tôn miếu)[7]
Thiệu Trị năm đầu (1841), nhà vua chuẩn cho Trương Đăng Quế làm Văn Minh điện Đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, quản lý bộ Binh, kiêm Cơ mật viện, kiêm sung chức Tổng tài ở Quốc sử quán.
Năm 1842, nhà vua đi tuần ra Bắc, sung ông làm Ngự tiền đại thần. Khi về, nhà vua tấn phong cho ông tước tử, và thưởng một đồng kim tiền hạng nhất.
Năm 1844, vì có bệnh, Trương Đăng Quế xin phép nghỉ. Trong khoảng thời gian này, ông xin bổ dùng con cháu của Mạc Thiên Tứ, được vua nghe theo.
Năm 1846, nhà vua gả con gái là An Mỹ công chúa cho con trai ông là Trương Đăng Trụ.
Năm 1847, vua Thiệu Trị tấn phong Trương Đăng Quế lên tước Tuy Thạnh bá, và cho khắc tên vào cỗ súng lớn có tên là "Bảo đại định công" (cỗ thứ nhất). Tháng 9 năm này, lại sung ông làm Phụ chính đại thần, nhận di chiếu tôn phò Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (tức Tự Đức) lên kế vị.
Sau khi lên ngôi, Tự Đức phong ông làm Cần chánh điện đại học sĩ, tấn phong tước Tuy Thạnh Quận công. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), bắt đầu đặt viện Tập hiền, Trương Đăng Quế được cử làm Kinh diên giảng quan.
Tháng Giêng năm sau (1850), ông nhận mệnh đi duyệt binh. Kỳ đại kế [8] năm ấy, ông được vua ban thưởng một kim khánh có khắc 4 chữ "Tam Triều Thạc Phụ".
Năm 1853, nhà vua lại sung ông làm Chánh sứ Bắc Kỳ hà đê. Sau khi đi kinh lý miền Bắc trở về, đề xuất việc sửa sang đê điều, đều được nhà vua nghe theo. Sau đó, lấy cớ sức yếu, ông xin thôi việc, được vua chấp thuận và cho giữ nguyên phẩm hàm. Nhưng chỉ được ít lâu, thuận theo lời tâu của các quan đứng đầu sáu bộ, nhà vua lại triệu ông vào triều tiếp tục giữ bộ Binh. Năm 1855, Trương Đăng Quế xin về hưu, nhưng nhà vua không cho.
Tháng 7 (âm lịch) năm 1858, có 12 chiếc tàu Pháp đến bắn phá các bảo đài ở cửa Hàn (Đà Nẵng, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Nam). Theo sử Nguyễn, buổi đầu ông cùng Phan Thanh Giản đều tâu là "chiến không bằng hòa". Tuy nhiên theo ông Quế, thì trước khi hòa, "cần phải giữ vững đã". Được vua cho là phải, sau đó ông nhận lệnh đi khắp Quảng Nam đôn đốc việc xây đắp đồn lũy để phòng thủ...[9]
Sau khi bị ngăn cản ở Đà Nẵng, quân Pháp kéo vào Nam, đến tháng 2 năm 1859, thì thành Gia Định bị đối phương đánh hạ. Thấy quân xâm lược cứ lấn tới, mà mình thì đã già mà không thể làm tròn trọng trách nên tháng 9 (âm lịch) năm 1860, Trương Đăng Quế xin về nghỉ. Trích lời tâu của ông:
Lần này, nhà vua cho ông về nhà riêng dưỡng bệnh, 10 ngày hoặc 5 ngày mới phải vào chầu một lần [10].
Năm Tự Đức thứ 15 (1862), Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin về nghỉ hưu. Theo lời bàn của đình thần, nhà vua cho ông thôi giữ bộ Binh, vì ở đó lúc này rất nhiều việc. Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin giáng hàm Thượng thư và bỏ tước Quận công, vì để cho "bốn cõi nhiều loạn, là sự nhục của khanh đại phu, là không làm tròn chức vụ của thần". Vua không chuẩn cho. Trương Đăng Quế lại dâng sớ nói: Thần không có kế gì để đẩy lui được giặc, nay xin đem một nửa số lương bổng (của thần) lưu lại ở kho để giúp quân phí...Nhà vua phải gượng làm theo ý ấy [11]
Sau, Trương Đăng Quế còn dâng sớ xin về hưu mấy lần nữa, vua Tự Đức mới thuận cho ông về nghỉ hẳn tại quê nhà vào tháng 3 (âm lịch) năm 1863. Mặc dù vậy, khi có việc hệ trọng, nhà vua cũng thường cử người đi hỏi ý kiến ông. Có lần, được nhà vua hỏi về việc nước, ông gửi sớ tâu 5 điều, trong đó đáng chú ý là: "Đường lối trị nước, cần ở dùng người, nhất là quan lại cấp huyện; Muốn quan thanh liêm, không gì bằng bớt viên chức đi, mà tăng lương bổng; Của dùng thiếu, tùy theo trường hợp, có thể cho phạm nhân được nộp thóc hay vàng chuộc tội",...Sớ tâu này được vua giao cho đình thần bàn bạc để thi hành [12].
Tháng 2 (âm lịch) năm Ất Sửu (1865), Trương Đăng Quế lâm bệnh nặng mất ở tuổi 72. Nghe tin, nhà vua cho nghỉ triều 3 ngày, truy tặng ông hàm Thái sư, ban tên thụy là Văn Lượng, cho khắc trên bia mộ dòng chữ: Lưỡng triều cố mệnh lương thần Trương Văn Lượng chi mộ (nghĩa là mộ của bề tôi giỏi chịu mệnh tiên đế phó thác qua hai triều là Trương Văn Lượng).
Năm Tự Đức thứ 28 (1875), nhà vua cho thờ ông trong Thế miếu tại Huế, theo lời dụ trước đây của vua Thiệu Trị.
Vốn có một kiến thức uyên bác, một tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ, được sử Nguyễn khen là "bình hòa điển nhã", được Phan Thanh Giản khen là: "Không có sách nào là ngài không đọc, lại sở trường thơ ca" [13]. Ông có chân trong Tùng Vân thi xã (còn gọi là Mặc Vân thi xã) do Tùng Thiện Vương (là học trò và là con rể ông) làm "chủ súy".
Sáng tác của Trương Đăng Quế khá nhiều, tiêu biểu là các tập:
Khi làm Tổng tài ở sử quán, ông tham gia biên soạn các bộ sử và điển lệ:
Ngoài ra, thơ văn của ông còn được chép trong các sách: Đại Nam anh nhã tiền biên (Lời hay ý nhã của nước Đại Nam, phần tiền biên), Quốc triều hàn quyển (Vườn văn của bản triều), Thi tấu hợp biên (Hợp biên các bài thơ và tấu), Thịnh thế giai văn tập (Tập văn hay đời thịnh), Thúy Sơn thi tập (Tập thơ về núi Thúy Sơn), Từ uyển xuân hoa (Hoa xuân vườn văn),v.v...
Nói riêng về thơ Trương Đăng Quế, trong sách Từ điển văn học (bộ mới) có đoạn viết:
Đầu năm 1836, vua Minh Mạng cho là sáu tỉnh Nam Kỳ, sau khi xảy ra sự biến thành Phiên An, việc binh đinh, điền thổ cần phải sửa sang nên chọn Trương Đăng Quế làm Kinh lược đại thần đi kinh lý Nam Kỳ, và ông đã đến Sài Gòn ngày 24 tháng 2 năm đó.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, thì chỉ trong 5 tháng, Trương Đăng Quế đã hoàn tất mọi việc, và thành công nhất là công tác duyệt tuyển và đạc điền. Ông viết:
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), vua Minh Mạng thăng Trương Đăng Quế lên Thượng thư bộ Binh. Kể từ đó, ông ra sức giúp việc trị an trong và ngoài nước.
Lược kể mấy việc nổi bật theo sử Nguyễn:
Để giữ yên tỉnh Thanh lâu dài, Trương Đăng Quế xin đắp một bảo lớn (gọi là bảo Ninh Lương), đắp đồn ở động Khương Chánh và ở Trịnh Vạn...Ngoài ra, ông còn xin chia động Trịnh Vạn ra làm 2 tổng (Trịnh Vạn và Quân Nhân), đồng thời xin lấy tổng Như Lăng (thuộc huyện Nông Cống) và tổng Luận Khê (thuộc huyện Lôi Dương) làm thành châu Thường Xuân...Tất cả đều được vua y cho [16].
Năm 1847, trong một sắc của vua Thiệu Trị, những đóng góp của ông về việc này lại được nói đến như sau:
Trương Đăng Quế là thầy học của vua Thiệu Trị và một số quý tộc nổi tiếng khác, trong đó có Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương. Các công chúa như Nguyệt Đình, Huệ Phố, Mai Am..., dù không theo học, nhưng vẫn xưng là học trò ông. Đương thời, ông được đông đảo giới trí thức lúc bấy giờ kính trọng về học vấn sâu rộng và nhân cách khiêm nhường [19].
Về vai trò của một ông quan, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện có đoạn chép về ông như sau:
Ghi nhận công lao Trương Đăng Quế, hiện ở quận Gò Vấp thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên ông.
Sau khi vua Thiệu Trị mất (1847), đình thần triều Nguyễn, đứng đầu là Trương Đăng Quế, đã đưa Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên nối ngôi theo di chiếu, lấy niên hiệu là Tự Đức. Việc "phế trưởng, lập thứ" này lập tức gây xôn xao dư luận đương thời. Người ta nghi rằng có sự mờ ám trong việc này và quy cho người gây nên mọi sự chính là Trương Đăng Quế. Từ đó nảy sinh hai nghi vấn:
Hai luồng dư luận trên, có lẽ, xuất phát từ một loạt các sự kiện liên quan đến việc tranh giành quyền lực giữa hai anh em là Nguyễn Phúc Hồng Bảo (con trưởng nhưng không được nối ngôi) – Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, và sự can thiệp của Trương Đăng Quế để bảo vệ ngai vàng của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), dẫn đến việc Hồng Bảo "nổi loạn" vào năm 1851, bị vua Tự Đức tống giam và chết trong ngục thất vào năm 1854; và việc Đoàn Hữu Trưng cầm đầu "Loạn Chày vôi" vào tháng 9 năm 1866, âm mưu lật đổ vua Tự Đức, đưa con trai của Hồng Bảo là Ưng Đạo lên ngai vàng, nhưng đã bị thất bại. Tuy nhiên, cũng có ý kiến phản bác các lời đồn đãi trên, và tìm cách chứng minh sự vô can của Trương Đăng Quế trong việc "phế, lập" của vua Thiệu Trị, và cũng không hề có chuyện dan díu giữa vị Cố mệnh đại thần này với Thái hậu Từ Dũ. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề "vua Tự Đức là con của ai?" vẫn còn là một nghi vấn [21].
Đại thần Trương Đăng Quế có năm con trai:
Trong số cháu của Trương Đăng Quế, có Trương Quang Chử (con của phò mã Quang Trụ với thứ thất) cũng lấy một công chúa con vua Dục Đức, là Phúc Lâm Công chúa Nhàn Gia; và Trương Đăng Trình, là người thi đỗ Tiến sĩ "đầu tiên" của tỉnh Quảng Ngãi[3].
Đầu năm 1836, Trương Đăng Quế nhận lệnh vua đi kinh lược xứ Nam Kỳ. Trước cảnh hoang tàn của thành Phiên An, cảm xúc ông làm bài thơ:
|
Một người bạn thân đi vào Nam để lo việc chống ngăn quân Pháp, Trương Đăng Quế làm thơ tiễn, đồng thời gửi gắm tình ý qua bài:
|
Năm 1876 (Tự Đức thứ 28) nhà vua cho phối thờ ông trong Thế miếu, nơi thờ phụng các vua nhà Nguyễn và phối thờ các đại công thần. Ngày nay, nhiều địa phương ở Quảng Ngãi, Thành phố Hồ Chí Minh cũng lấy tên ông đặt cho các tuyến đường nội thị trọng yếu.[25] Nhà thờ và lăng mộ Trương Đăng Quế được xây dựng tại làng Mỹ Khê Tây, huyện Bình Sơn, nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.[26] Ở thị trấn Lang Chánh (Thanh Hóa) cũng có con đường mang tên Bảo Ninh Lương, là bảo do ông cho người đắp.[27]
Trương Đăng Quế được hậu thế tôn vinh tại di tích nhà thờ họ Trương Việt Nam thuộc thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Đền Trương là nơi thờ những người họ Trương đã khuất tại ban thờ công đồng,[28] trong hậu cung có tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (Trương Hữu Nhân) và 14 danh nhân họ Trương tiêu biểu nhất thời phong kiến ở 3 miền Việt Nam gồm: Ban văn thờ Thái phó Trương Hán Siêu, Trạng nguyên Trương Hanh, Trạng nguyên Trương Xán, Thượng thư Trương Công Giai, Thái sư Trương Đăng Quế, Đông các đại học sĩ Trương Quốc Dụng, Thượng thư Trương Công Hy. Ban võ thờ Tướng Trương Hống, Tướng Trương Hát, Tướng Trương Nữu, Tăng lục võ sư Trương Ma Ni, Tướng Trương Chiến, Đại tướng quân Trương Minh Giảng và Anh hùng Trương Công Định.
Năm | Tác Phẩm | Diễn Viên | Nhân Vật |
2020 | 《Phượng khấu》 | Huỳnh Kiến An | Trương Đăng Quế |