Trần thức Thái cực quyền, Trần gia Thái cực quyền, hay Trần thị Thái cực quyền (陳式、陳家 hoặc 陳氏 太極拳) là tên gọi của trường phái Thái cực quyền của dòng họ Trần, được quyền sư nổi tiếng Trung Hoa, Trần Vương Đình (Chen Wang Ting, 陈王廷), sáng tạo vào giai đoạn Minh mạt Thanh sơ và được các thế hệ con cháu trong dòng họ trau truốt, tinh luyện qua nhiều thế hệ.
Nếu không tính đến huyền thoại về những tổ sư khai sáng Thái cực quyền, Trương Tam Phong và Vương Tông Nhạc, mà giới võ học chưa thể bạch hóa, Thái cực quyền của dòng họ Trần khởi nguồn từ Trần Vương Đình được công nhận là nguồn cội của nhiều dòng phái Thái cực quyền về sau. Trong số đó đáng chú ý là Dương thức Thái cực quyền do Dương Lộ Thiền (1799-1812); và Võ thức Thái cực quyền do Võ Vũ Tương (1812-1880) sáng lập. Hai ông học Trần thức Thái cực quyền từ cháu thứ 14 của dòng họ Trần, trong đó Dương Lộ Thiền thụ truyền từ Trần Trường Hưng (陳長興, 1771-1853) và Võ Vũ Tương sở đắc lý pháp Trần gia Thái cực quyền từ Trần Thanh Bình (陳清苹, 1795-1868).
Cuối thế kỷ 14, một người nông dân tên Trần Bốc (Chen Bu hoặc Chen Pu 陳仆) tới cư ngụ tại một làng nhỏ thuộc huyện Ôn (Wenxian), tỉnh Hà Nam, phía Bắc sông Hoàng Hà (Huanghe). Ông là người tỉnh Sơn Tây (Shanxi), và là tổ của gia đình họ Trần. Làng mà ông tới cư ngụ về sau được gọi là Trần Gia Câu (Chenjia Gou, 陳家沟)[1]. Theo một số người trong gia tộc họ Trần, môn võ (Thái cực quyền) khởi nguyên từ tổ phụ Trần Bốc, tuy nhiên nhiều học giả đã bác bỏ điều này và thừa nhận chính Trần Vương Đình (Chen Wangting, 1600-1680) mới là khởi nguyên của Thái cực quyền dòng họ Trần.
Trần Vương Đình sống vào cuối đời Minh đầu nhà Thanh, là người đất Ôn, tỉnh Hà Nam, đời thứ 9 của dòng họ Trần ở Trần Gia Câu. Trong thời nhà Minh, Trần Vương Đình từng giữ chức vụ tuần phủ, án sát Sơn Đông, Trực Lệ, tỉnh Hà Bắc và là Liêu Đông kiêm chức giám quân, chống nhau với giặc Thanh hơn 4 năm. Quyển Trần thị Gia phổ (陳家氏譜 Chenshi Jia Pu) có ghi: Ông sinh vào cuối triều đại nhà Minh đầu triều đại nhà Thanh, danh tiếng tại tỉnh Sơn Đông, đánh đuổi quân cướp, và là người đầu tiên đem vào gia đình ông môn quyền, đao và thương, ông thường sử dụng cây đại đao[1].
Năm 1644 khi nhà Minh mất, Trần Vương Đình lui về ẩn cư. Từ đây ông tập trung nghiên cứu, tổng hợp các môn võ thuật đương thời[2], lấy 29 thức trong số 32 thức của Quyền kinh của Thích Kế Quang, để cải tạo thành một bài riêng truyền lại cho con cháu. Thái cực quyền được Trần Vương Đình truyền lại cho con cháu trong họ, đời đời luyện tập và không ngừng cải tiến tinh luyện. Cuốn Trần thị gia phổ cũng cho biết Trần Vương Đình tuy đem vào dòng họ 3 môn quyền, đao, thương, nhưng các đời về sau chỉ còn truyền lại quyền mà thôi.
Trước thế kỷ 14, theo Trần thị gia phổ hệ thống võ học của dòng họ Trần bao gồm 7 quyền lộ: Đầu sáo quyền (Toutaoquan) còn được gọi Thập tam thức (Shisan Shi); Nhị sáo quyền (Ertaoquan); Tam sáo quyền (Santaoquan) còn được gọi là Đại tứ sáo trùy (Dasitaochui); Tứ sáo quyền (Sitaoquan) còn được gọi là Hồng quyền (Hongquan) hay Thái tổ hạ nam đường (Tauzu Xia Nantang); Ngũ sáo quyền (Wutao quan); Trường quyền (Chang quan) còn được gọi là Nhất bách linh bát thức (Yibailingba Shi); Pháo trùy (Paochui)[1]. Hệ thống kỹ thuật này còn kiêm các công phu Đoản đả (Duanda); Tán thủ (Sanshou); Kiều thủ (Jishou); Lược thủ (Lueshou); Sử thủ (Shushou), Tam thập lục cổn diệt (Sanshiliu Gunyue); Kim cang thập bát noa pháp (Jingang Shiba Nafa). Ngoài ra là binh khí với Đơn đao (Dandao); Song đao (Shuangdao); Song kiếm (Shuangjian); Song giản (Shangjian), Bát thương (Baqiang); Bát thương đối thích pháp (Baqiang Dui Cifa); Thập tam thương (Shisanqiang); Hoàn hậu Trương Dực Đức tứ thương (Huan Hou Zhang Tesi qiang); Nhị thập tứ thương (Ershisiqiang Lianfa); Bàng la bảng (Panluobang) Xuân thu đao (Chungqiuđao); Bàng la bảng luyện pháp (Panluobang Lianfa); Tuyền phong côn (Xuanfenggun); Đại chiến phác liêm (Dazhan polian)[1]. Trong hệ thống quyền pháp Trần gia nổi lên 2 quyền lộ chính: Trường Quyền vốn xuất xứ từ quyền pháp của Thích Kế Quang dài và phức tạp, và Thập Tam Thức vốn lấy từ Thái cực quyền Phổ của Vương Tông Nhạc. Tuy vậy, Trần gia Thái cực quyền chủ yếu vẫn là Trường Quyền, còn Thập Tam Thức do con cháu họ Trần học lại từ Vương Tông Nhạc về sau[cần dẫn nguồn].
Cho đến thời cận đại, đời thứ 14 của dòng họ Trần vào thế kỷ 19, Thái cực quyền của dòng họ Trần phát sinh thành hai nhánh. Một chi nhánh xuất từ Trần Sở Nhạc (Chen Suoyue) truyền bởi Trần Hữu Bản (Chen Youben 陈有本) và Trần Hữu Hằng (Chen Suoyue). Một chi nhánh khác xuất phát từ Trần Trường Hưng (Chen Changxing hoặc Ch'en Chang-hsing 陳長興, 1771-1853). Trong khi Trần Trường Hưng vẫn đi theo hệ thống gia truyền gọi là Lão giá ("Thái cực quyền Trần gia Lão giá", hay "Thái cực quyền Trần gia Đại giá"), Trần Hữu Bản đã cải tiến Thái cực quyền do tổ phụ để lại thành hệ thống Tân giá (xinjia 新架) (Thái cực quyền Trần gia Tân giá). Tuy vậy, hệ thống Tân giá Thái cực quyền vẫn dựa chủ yếu trên nền Lão giá. Theo truyền thuyết, ba quyền sư này đã tóm gọn lại quyền giá, từ 7 bài quyền xưa chỉ còn lại 2 bài: Đệ nhất lộ (Diyliu) và Pháo trùy quyền (Paochui). Về sau, Trần Thanh Bình (Chen Qingping hoặc Ch'en Ch'ing-p'ing 陳清苹, 1795-1868) lại sáng tạo thêm các động tác mới và cải tiến quyền thức gọn gàng hơn, hình thành nên Tiểu giá (xiao jia 小架) Thái cực quyền, là bộ thứ 2 trong Tân giá quyền thức của Trần gia[3]. Kỹ pháp do Trần Thanh Bình nhuận sắc và truyền dạy cũng được gọi là Bảo giá hay Triệu Bảo gia Thái cực quyền.
Vào thế kỷ 20, Chi nhánh Trần thức Đại giá khởi nguồn từ Trần Trường Hưng lại chia ra hai chi phái Bảo giá của Trần Chiếu Phi (Chen Zhaopi, 1893-1972) và Tân giá của Trần Phát Khoa (Chen Fake, 1887-1957)[1].
Trần Trường Hưng (Trần gia Lão giá) có dạy Thái cực quyền ra ngoài nội tộc. Hai học trò được biết nhất là Dương Lộ Thiền (Yang Luchan) và Lý Bá Khôi (Li Bokui) và sau này, Dương Lộ Thiền là người thành lập chi phái Dương thức Thái cực quyền. Từ Dương thức Thái cực quyền, nhờ Ngô Giám Tuyền (1870–1942), cũng đã khai sinh dòng Ngô thức Thái cực quyền.
Từ các đệ tử của Trần Thanh Bình (Trần gia Tiểu giá), đã sinh thành các lưu phái Võ thức Thái cực quyền do Võ Vũ Tương (1812–1880) sáng lập; Hòa gia Thái cực quyền (Hijia Taiji Quan) lập bởi Hòa Triệu Nguyên (HeZhaoyuan, 1810-1890), Tam hợp nhất Thái cực quyền (Sanheyi Taiji Quan) lập bởi Trương Kính Chi (Zhang Jingshi)[1]. Đệ tử của Võ thức Thái cực quyền, Tôn Lộc Đường về sau khai sinh Tôn thức Thái cực quyền.
Đặc điểm của Trần thức Thái cực quyền có thể tóm lược trong 8 yếu lĩnh được Trần thị quyền phổ quy định:
Bài quyền thứ nhất, hay "Đệ nhất lộ", có đặc điểm là động tác rõ ràng, đơn giản, nhu nhiều cương ít, lấy tứ chính kình bằng, lý, tê, án (nâng, kéo, đẩy, đè) vận dụng làm chính và tứ ngung thủ thái, liệt, chẩu, kháo (chộp, cắt, chỏ, dựa) làm phụ. Phương pháp dụng lực lấy "triền ty kình" (kình lực xoắn ốc như quấn tơ) làm chính và phát kình làm phụ[4]. Động tác của bài khoan thai, mềm mại, vững chắc và chậm rãi, thích hợp cho dưỡng sinh.
Bài quyền thứ hai, còn gọi là "Pháo chùy quyền", có động tác phức tạp hơn, đòi hỏi sự nhanh nhẹn, gọn gàng, cương nhiều nhu ít, vận kình với thái, liệt, chẩu, kháo (chộp, cắt, chỏ, dựa) làm chính và bằng, lý, tê, án (nâng, kéo, đẩy, đè) làm phụ[4]. Động tác của bài cứng rắn, mau lẹ, có nhiều động tác nhảy nhót né tránh, thích hợp trong thực chiến.
Dưới đây là tên chiêu thức trong 2 bài của Trần gia Thái cực quyền, do quyền sư Trần Phát Khoa (Chén Fākē hoặc Ch'en Fa-k'e 陳發科, 陈发科 1887-1957) và con trai là Trần Chiếu Khuê (Chen Zhaokui 陳照奎, 1928-1981) biểu diễn, phân thế:
TT | Tên chiêu thức Bài Thái cực quyền thứ nhất (Đệ nhất lộ)[5] |
TT | Tên chiêu thức Bài Thái cực quyền thứ hai (Pháo chùy quyền)[6] |
---|---|---|---|
1 | Dự bị thức Thế chuẩn bị |
1 | Dự bị thức Thế chuẩn bị |
2 | Kim cương đảo đối Chày giã cứng như kim cương |
2 | Kim cương đảo đối Chày giã cứng như kim cương |
3 | Lãn trác y Lười mặc áo ngoài |
3 | Lãn trác y Lười mặc áo ngoài |
4 | Lục phong tự bế Sáu phần ngăn bốn phần chặn |
4 | Lục phong tự bế Sáu phần ngăn bốn phần chặn |
5 | Đơn tiên Một cây roi |
5 | Đơn tiên Một cây roi |
6 | Kim cương đảo đối 2 | 6 | Ban lan chẩu Gạt chỏ |
7 | Bạch hạc lượng xí Hạc trắng xòe cánh |
7 | Hộ tâm trùy Chùy hộ vệ tim |
8 | Tà hành ảo bộ Bước nghịch đi xéo |
8 | Ảo bộ tà hành Bước nghịch đi xéo |
9 | Sơ thu Thu lại lần đầu |
9 | Sát yêu áp chẩu quyền Quyền sát vào eo và áp chỏ vào sườn |
10 | Tiền đường ảo bộ Bước nghịch lên phía trước mặt |
10 | Tỉnh lãm trực nhập Ôm giếng vào thẳng |
11 | Tà hành ảo bộ 2 | 11 | Phong tảo mai hoa Gió quét hoa mai |
12 | Tái thu Thu lại |
12 | Kim cương đảo đối |
13 | Tiền đường ảo bộ | 13 | Tý thân chùy Chùy che thân |
14 | Yểm thủ quăng trùy Tay che và quăng đánh |
14 | Phiết thân chùy Ném cái chùy |
15 | Kim cương đảo đối 3 | 15 | Trảm thủ Tay chém |
16 | Phi thân chùy Chia thân ra đánh |
16 | Phiên hoa vũ tụ Lấy tay áo phất cánh hoa |
17 | Bối chiết kháo Đánh bằng vai |
17 | Yểm thủ quăng trùy Tay che tay đánh |
18 | Thanh long xuất thủy Rồng xanh rời nước |
18 | Phi bộ ảo loan chẩu Chỏ loan bước nhảy ngược |
19 | Song thôi thủ Hai tay đẩy |
19 | Vận thủ Tay vận chuyển |
20 | Tam hoán chưởng Ba lần đổi chưởng |
20 | Cao thám mã Vỗ đầu ngựa |
21 | Chẩu để chùy Chùy dưới trỏ |
21 | Vận thủ |
22 | Đảo quyển quăng Đảo cánh tay |
22 | Cao thám mã |
23 | Thối bộ áp chẩu Ép chỏ lui bước |
23 | Liên châu pháo Pháo liên châu |
24 | Trung bàn Ở giữa |
24 | Liên châu pháo |
25 | Bạch hạc lượng sí | 25 | Liên châu pháo |
26 | Tà hành ảo bộ | 26 | Đảo kỳ lân Đuổi kỳ lân |
27 | Thiểm thông bối Chớp xuyên lưng |
27 | Bạch xà thổ tín Rắn trắng nhả độc |
28 | Yểm thủ quăng chùy | 28 | Bạch xà thổ tín |
29 | Lục phong tự bế | 29 | Bạch xà thổ tín |
30 | Đơn tiên | 30 | Hải để phiên hoa Hoa rơi đáy biển |
31 | Vận thủ Tay chuyển vận |
31 | Yểm thủ quăng trùy |
32 | Cao thám mã Vỗ đầu ngựa |
32 | Chuyển thân lục hợp Xoay người lục hợp |
33 | Hữu sát cước Xoa đá chân phải |
33 | Tả khỏa tiên pháo Thế đánh trái bọc cây roi |
34 | Tả sát cước Xoa đá chân trái |
34 | Tả khỏa tiên pháo |
35 | Đặng nhất căn Đạp gót thành hình chữ "nhất" |
35 | Hữu khỏa tiên pháo Thế đánh phải bọc cây roi |
36 | Tiền đường ảo bộ | 36 | Hữu khỏa tiên pháo |
37 | Kích địa chùy Chùy đánh xuống đất |
37 | Thú đầu thế Thế đầu thú |
38 | Phiên thân nhị khởi cước Xoay người đá hai lần |
38 | Phách giá tử Chẻ các giá |
39 | Thú đầu thế Thế đầu thú |
39 | Phiên hoa vũ tụ |
40 | Toàn phong cước Đá như gió xoáy |
40 | Yểm thủ quăng chùy |
41 | Đặng nhất căn | 41 | Phục hổ Hổ nằm phục |
42 | Yểm thủ quăng trùy | 42 | Mạt mi hồng Vẽ lông mày hồng |
43 | Tiểu cầm nã Thế chụp đánh |
43 | Hữu hoàng long tam lãm thủy Rồng vàng 3 lần trông coi nước (phải) |
44 | Pháo đầu thôi sơn Quả đấm đẩy núi |
44 | Tả hoàng long tam lãm thủy Rồng vàng 3 lần trông coi nước (trái) |
45 | Tam hoán chưởng | 45 | Tả đặng nhất căn Đạp gót hình chữ "nhất" (bên trái) |
46 | Lục phong tự bế | 46 | Hữu đặng nhất căn Đạp gót hình chữ "nhất" (bên phải) |
47 | Đơn tiên | 47 | Hải để phiên hoa |
48 | Tiền chiêu Chiêu trước |
48 | Yểm thủ quăng chùy |
49 | Hậu chiêu Chiêu sau |
49 | Tảo đường thoái Chân quét một vòng |
50 | Dã mã phân tông Ngựa hoang lắc bờm |
50 | Yểm thủ quăng chùy |
51 | Lục phong tự bế | 51 | Tả xung Xông lên (bên trái) |
52 | Đơn tiên | 52 | Hữu xung Xông lên (bên phải) |
53 | Song chấn cước Chân chặn hai cái |
53 | Đảo tháp Cắm ngược lại |
54 | Ngọc nữ xuyên thoa Thiếu nữ đưa thoi |
54 | Hải để phiên hoa |
55 | Lãn trác y | 55 | Yểm thủ quăng chùy |
56 | Lục phong tự bế | 56 | Đoạt nhị quăng Chiếm đoạt hai cánh tay |
57 | Đơn tiên | 57 | Đoạt nhị quăng |
58 | Vận thủ | 58 | Liên hoàn pháo Pháo liên hoàn |
59 | Bãi cước diệt xoa Đá tạt ngồi xuống |
59 | Ngọc nữ xuyên thoa Thiếu nữ đưa thoi |
60 | Tả hữu kim kê độc lập Gà vàng đứng một chân trái phải |
60 | Tứ đầu đương môn pháo Bốn đầu pháo giữ cửa |
61 | Đảo quyển quăng | 61 | Ngọc nữ xuyên thoa |
62 | Thối bộ áp chẩu | 62 | Tứ đầu đương môn pháo |
63 | Trung bàn | 63 | Phiến thân trùy |
64 | Bạch hạc lượng sí | 64 | Ảo loan chẩu Chỏ loan nghịch |
65 | Tà hành ảo bộ | 65 | Thuận loan chẩu Chỏ loan thuận |
66 | Thiểm thông bối | 66 | Xuyên tâm chẩu Chỏ xuyên tim |
67 | Yểm thủ quăng chùy | 67 | Oa lý pháo Pháo trong hang |
68 | Lục phong tự bế | 68 | Tỉnh lãm trực nhập |
69 | Đơn tiên | 69 | Phong tảo mai hoa |
70 | Vận thủ | 70 | Kim cương đảo đối |
71 | Cao thám mã | 71 | Thu thế Thế thu lại |
72 | Thập tự bãi liên Đá tạt lá sen, tay chữ "thập" |
||
73 | Chỉ đương chùy Đấm vào bụng dưới |
||
74 | Bạch viên hiến quả Khỉ trắng dâng trái cây |
||
75 | Lục phong tự bế | ||
76 | Đơn tiên | ||
77 | Tước địa long Rồng đất nhảy múa |
||
78 | Thượng bộ thất tinh Bước lên bảy ngôi sao |
||
79 | Thối bộ khóa hổ Lui bước cưỡi hổ |
||
80 | Chuyển thân song bãi liên Xoay người hai chân đá tạt lá sen |
||
81 | Đương đầu pháo | ||
82 | Kim cương đảo đối | ||
83 | Thu thế Thế thu lại |
Là những bài tập nhằm ứng dụng Thái cực quyền trong chiến đấu, kỹ thuật thôi thủ[7] của Trần thức Thái cực quyền thực hiện bộ pháp một tiến một lùi, cũng có thể tiến liên tục hoặc lùi liên tục. Thủ pháp cơ bản là "bằng", "lý", "tê", "án" gọi là tứ chính thủ và thủ pháp nâng cao là "thái", "liệt", "chẩu", "kháo" gọi là tứ ngung thủ, đại lý hay đại kháo[8].
Sau khi thành thục cả tứ chính thủ và tứ ngung thủ, tiến tới bước tán thủ hay còn gọi là loạn thác hoa, tức phương thức thôi thủ không câu nệ bước chân[9].
Ngũ đại danh gia Thái cực quyền |
---|