Trống cơm là nhạc cụ họ màng rung, chi vỗ của người Việt. Trống cơm có 2 mặt hình tròn bằng nhau, một mặt âm trầm và một mặt âm bổng. Chiều dài của trống vào khoảng 55 - 70cm, đường kính khoảng 18 – 20 cm. Hai mặt được căng dây xạ hoặc đóng đinh tre.
Trước khi đánh trống người ta thường lấy cơm xoa vào mặt trầm của trống để định âm, tục gọi là cho "ấm tiếng" hài hòa, do đó trống này gọi là trống cơm.
Trống cơm đã đi sâu vào đời sống âm nhạc dân gian người Việt qua bài dân ca Bắc Bộ cùng tên.
Từ thế kỷ 10, trống cơm đã xuất hiện ở Việt Nam (đời nhà Lý). Chữ Nho gọi là yêu cổ[1] 腰鼓.
Theo An Nam chí lược của Lê Tắc soạn vào thế kỷ 13 thì trống cơm nguyên là nhạc khí của Chiêm Thành, khi dùng thì lấy cơm nghiền ra bôi vào, tiếng trong mà rõ. Trống đó sau du nhập Việt Nam. Cũng tương cận là trống Mridangam ở miền Nam Ấn Độ. Khi đánh thì họ cũng bôi một ít cơm nghiền – hoặc một lớp bột mì trộn nhuyễn như miếng bánh – dán lên làm cho tiếng trống êm ái hơn.
Trống cơm có 2 mặt trống hình tròn bằng nhau, đường kính khoảng 18 – 20cm. Mặt trống được bịt bằng da trâu (thường là trâu đực thì sẽ tốt nhất về độ dai và bền). Trống cơm bao gồm một mặt trầm (gọi là mặt Thổ) và một mặt bổng (mặt Kim). Mặt Thổ được bưng bằng phần da lưng, mặt Kim dùng phần da nách.
Có loại trống tương tự như trống cơm gọi là bồng, dùng trong múa dân tộc (như điệu múa Bồng Triều Khúc), kích thước thường nhỏ hơn trống cơm để tránh bị vướng khi múa.[2]
Đường viền buộc bằng dây xạ, kéo từ đầu trống này sang đầu trống kia để chỉnh độ căng giữa 2 mặt trống. Người ta cũng có thể chêm một đoạn tre vào giữa thân để căng dây, căng mặt khi dây chùn xuống. Có khi da trống được đóng đinh tre như các loại trống khác.
Phần thân trống (tang trống) thường được làm từ gỗ mít hoặc gỗ trắc, hình ống tròn, dài khoảng 55 - 70cm, hai đầu hơi khum lại, đường kính ở tang trống đoạn giữa lớn hơn đường kính mặt trống[3]. Tang trống đóng vai trò là hộp cộng hưởng. Có thể liền một thân cây gỗ khoét rỗng (tang liền) hoặc ghép từ các mảnh gỗ dài bằng keo để tiết kiệm gỗ hơn (tang ghép).
Giống với trống cơm có trống ghi-năng của người Chăm[4] và trống của người Cơ Tu[5][6].
Trống cơm có âm thanh vang nhưng mờ đục, diễn tả tốt tình cảm buồn, sâu sắc. Tiếng trống cơm nghe gần giống tiếng đàn Hồ lớn bật dây nên đôi lúc người ta sử dụng nó thay âm thanh đàn hồ lớn trong những âm trầm nhất định nào đó. Tùy theo chất cơm trét mặt trống âm thanh phát ra sẽ có chất lượng tốt hay xấu tương ứng.
Cao độ mặt trầm và mặt bổng của trống cơm cách nhau một quãng 5 đúng. Để chỉ âm thanh của trống cơm, người ta thường gọi là âm "tầm vông", "tùng vinh" hay "bung, bập, bùng".
Trước khi chơi trống cơm, thường phải có một bước "Định âm trống" hay còn gọi là "Lên dây trống" hoặc "Lên mặt trống".[7]
Người ta lấy cơm còn ấm trét vào giữa mặt Thổ để định âm, càng nhiều cơm âm thanh ở mặt càng trầm xuống. Mặt Kim thường để âm cố định (không trét cơm). Dùng hai ngón tay cái liên tục trét cơm thành núm hình tròn sao cho các hạt cơm được nhuyễn như bánh dày và có đường kính cơm trét khoảng 4cm, dày khoảng 0,5cm - 0,7cm (chỗ dày nhất ở tâm núm). Khi trét cơm cần phải kết hợp với thẩm âm để tạo cho hai mặt trống một quãng 4 hoặc quãng 5. Ví dụ: Mặt Thổ âm Đồ (C) thì mặt Kim âm Fa (F) hoặc Sol (G).[7]
Theo kinh nghiệm dân gian, nên dùng cơm tẻ vì cơm nếp sẽ bị dính quá và nhanh khô cứng, cơm thổi phải đạt tới độ dẻo nhất định mà không được khô, cũng không được nhão.
Theo NSUT Vũ Ngọc (Nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công Chèo từng công tác tại Nhà Hát Chèo Việt Nam) thì sau khi trét cơm thành núm như thông thường, ta lấy đầu ngón tay trỏ nhấn tạo thành một vết lõm trên núm cơm vừa tạo. Như vậy, khi vỗ âm trống sẽ có độ bay và vang hơn.
Khi trét cơm và chơi trống một vài giờ đồng hồ (tùy thuộc những vở diễn dài, tùy thuộc thời tiết khô hanh hay ẩm ướt các mùa) mà mặt trống sẽ dần bị bí tiếng, không còn độ vang, độ đàn hồi như ban đầu do cơm trét dính trên mặt trống bị khô đóng bám chặt lên mặt da. Để cải thiện tình trạng này, người ta thường quét qua 1 lớp mỏng dầu ăn hoặc mỡ lợn lên trên núm cơm sau khi trét để giữ nước cho cơm. Việc làm này ít nhiều cũng có cải thiện, nhưng thực tế trong khi biểu diễn, người chơi thường chủ động nhấm nước qua cơm liên tục để giữ độ ẩm. Cũng vì đặc điểm đó mà sau này, các nghệ sĩ có sự cải tiến dùng đất nặn (đất sét màu) để trét thay cơm, tuy khắc phục được sự mất nước của cơm nhưng âm thanh lại không đạt được bằng khi dùng cơm.
Trống cơm có thể diễn tấu khi đứng hoặc ngồi. Trường hợp diễn tấu đứng (hát sắc bùa, tế lễ...) người ta đeo trống bằng dây quàng qua cổ. Khi diễn tấu ngồi, nhạc công ngồi xếp bằng và đặt trống ngang trước bụng hoặc đầu gối. Hai tay vỗ vào hai mặt trống, tay trái vỗ vào mặt âm trầm, tay phải vỗ vào mặt âm cao. Trống cơm có kỹ thuật diễn chính như sau:
Đối với hát Xẩm và hát Chèo, trống cơm chỉ giữ nhịp và đánh luồn vào đàn. Mặt trầm vỗ theo nhịp trường canh (như mõ), mặt bổng vỗ luồn theo tiết tấu của bản nhạc.
Trống cơm góp mặt trong nhiều dàn nhạc cổ truyền Việt Nam, trong số đó bao gồm: