Cồng chiêng là nhạc cụ thuộc bộ gõ bằng hợp kim đồng, hình tròn, ở giữa có hoặc không có núm, đường kính khoảng từ 20 cm lên đến 120 cm. Cồng chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao.[1]
Cồng chiêng là nhạc khí gõ phổ biến đối với nhiều dân tộc ở Việt Nam. Sự hình thành nghệ thuật diễn xướng cồng chiêng độc đáo của các dân tộc vùng Tây Nguyên (Ê Đê, Gia Rai, Ba Na...) và miền núi phía Bắc (Mường, Thái, Thổ...) đã tạo nên những không gian văn hóa rất riêng. Tùy theo mỗi dân tộc họ lại có tên gọi và cách định danh khác biệt với cồng chiêng.[2]
Cồng chiêng từ lâu đã gắn liền với văn hóa cổ truyền của nhiều dân tộc ở Việt Nam, từ lễ nghi, phong tục đến tín ngưỡng dân gian. Cách sử dụng cồng chiêng của từng dân tộc cũng vì thế khác nhau.
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với đời sống tín ngưỡng của người Tây Nguyên. Theo quan niệm của nhiều dân tộc Tây Nguyên, cồng chiêng là vật thiêng, là cầu nối giữa con người và thần linh (Yàng). Họ tin rằng mỗi cái cồng, chiếc chiêng đều có thần linh trú ngụ; trước khi sử dụng phải trải qua nhiều nghi lễ cúng tế khắt khe, và có những cấm kị tùy theo quan niệm mỗi dân tộc. [3] Người ta còn gọi tên từng chiếc chiêng như con người: dân tộc Brâu gọi hai chiếc chiêng Tha là chiêng vợ, chiêng chồng[4]; dân tộc Ê Đê gọi 6 chiêng dàn Jho là chiêng cha, chiêng mẹ, chiêng con[5]...
Có thể suy luận rằng, văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã phản ánh một xã hội ở cấp độ nguyên sơ nhất của con người mà ở đó, cồng chiêng vẫn còn giữ được những đặc điểm tương đối nguyên bản, chưa phát triển thành một nhạc cụ dân gian hay nhạc cụ cung đình như những nước Đông Nam Á khác.
Nếu ở dân tộc Mường người đánh chiêng thường là nữ, thì ở Tây Nguyên cồng chiêng chỉ nam giới được dùng. Tuy nhiên, do tính cấp bách giữ gìn văn hóa cồng chiêng, các dân tộc dần dần vượt qua những quan niệm cũ để mọi người có thể cùng nhau tham gia bảo tồn di sản.
Dẫn đầu là sự ra mắt đội cồng chiêng nữ đầu tiên tại Gia Lai - đội chiêng nữ làng Leng (Ba Na) năm 2013. Bà Đinh Thị Khóp, đội trưởng chia sẻ: "Với tình yêu và trách nhiệm với văn hóa dân tộc mình, chúng tôi thuyết phục mọi người, già làng đồng ý cho phụ nữ đánh chiêng". Nói về sự tham gia của phụ nữ trong diễn xướng cồng chiêng, già làng Jram “rất vui vì dân làng mình đoàn kết, cùng nhau gìn giữ tiếng chiêng, tiếng trống của ông bà và thế hệ đi trước để lại”.[6]
Chính vì tính nguyên bản và cấp bách trong việc bảo tồn, lưu giữ, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là Di sản. Nếu xem văn hóa cồng chiêng Đông Nam Á là một cây đại thụ thì văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên chính là một phần cội rễ; đó là nơi khởi nguồn, phát xuất cho mọi mạch nguồn sáng tạo. Phát huy di sản này như thế nào, tương lai của cồng chiêng Tây Nguyên sẽ ra sao là một câu hỏi mà để trả lời phải cần thêm sự góp sức nhiệt tình của các nhà nghiên cứu, rộng hơn là của cả cộng đồng.
Các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam như Mường, Thái, Thổ, La Chí... cũng dùng cồng chiêng, từ vai trò là một phương tiện thông tin đến nhạc khí dùng trong các nghi lễ, lễ hội.
Âm thanh cồng chiêng đồng hành cùng nhiều phương diện đời sống văn hóa người Mường, nổi bật nhất phải kể đến tục Sắc bùa vào dịp đầu năm. Một dàn chiêng Mường đầy đủ lên đến 12 chiếc, tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Một "phường bùa" gồm 12 người sẽ được tập hợp lại, vừa gióng chiêng vừa đi sang từng gia đình để hát chúc Tết. Trước khi đánh Sắc bùa, người ta phải thực hiện nghi thức gọi chiêng dậy (zấyl chiêng). Cũng như các dân tộc Tây Nguyên, người Mường coi chiêng là vật thiêng. Họ quan niệm không bao giờ để chiêng nằm úp vì sẽ ảnh hưởng đến âm thanh, tục gọi là chiêng "câm" hoặc "lùn tiếng".[7]
Cồng chiêng dân tộc Thái gắn liền với nghệ thuật xòe Thái, múa sạp quen thuộc với đông đảo du khách Việt Nam. Người La Chí cũng có điệu múa trống chiêng vào mỗi dịp Tết Khu Cù Tê[8][9].
Đối với đông đảo người Việt, tiếng chiêng, tiếng trống đã đi liền với muôn mặt đời sống tinh thần, từ những đám rước mỗi dịp hội làng đến những nghi lễ tế thánh, tế Thành hoàng... Chiêng đồng cùng trống cái trở thành hai nhạc khí không thể thiếu trong không gian đình làng và đền thờ Việt. Các đình làng thường dùng chiêng núm kích thước từ 50cm đến 70cm, cũng có khi dùng chiêng phẳng (gọi là Lệnh).
Cồng chiêng xuất hiện từ âm nhạc nghi lễ đến nhiều loại hình dân vũ, dân ca cũng như sân khấu truyền thống.[10][3][11] Cồng chiêng thường được đánh bằng dùi quấn vải mềm (với chiêng núm) hoặc dùi trần (với chiêng bằng). Nhiều dân tộc Tây Nguyên có khi đánh chiêng bằng nắm tay, cho âm thanh trầm hơn, tròn trịa hơn. [11]
Chiêng đồng góp mặt trong một số loại hình diễn xướng cổ truyền người Việt như Chèo, Tuồng, Hát bội, Ca trù, Nhã nhạc cung đình Huế. Với dàn nhạc Chèo, chiêng thường được gióng lên ở các phân đoạn mở đầu (như Thi nhịp, khi các bộ gõ dồn dập tấu lên) và tuỳ theo tuồng tích mà dùng cho phù hợp, chẳng hạn như các phân cảnh vinh quy bái tổ (như trong vở Lưu Bình - Dương Lễ) nhằm tạo sắc thái vinh hiển và uy nghi.
Chiêng dùng trong Ca trù cũng nhằm mục đích khen chê như trống chầu, thường dùng với những điệu hát cửa đình: "Ở cửa đền ngày xưa có lệ hát thẻ. Thẻ gọi là trù, làm bằng mảnh tre ghi mức tiền ứng với giá trị mỗi thẻ, dùng để thưởng ả đào thay cho tiền mặt. Khi hát, quan viên thị lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng (cồng) và một bên đánh trống. Chỗ nào ả đào hát hay, bên trống thưởng một tiếng 'chát', bên chiêng đánh một tiếng chiêng 'bili...' rồi thưởng cho một cái trù (thẻ)" (Ca trù bị khảo).[12]
Biên chế và bài bản chiêng dân gian của nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam rất phong phú và có những nét đặc trưng riêng. Người Thái, người Thổ diễn tấu 4 cồng Dàm (trầm) cùng một trống cái, có thể hòa tấu cùng nhịp chày khua luống. Người Cơ Tu, Tà Ôi dùng 2 chiêng bằng trong các điệu múa lễ hội[13][14], đôi khi có một chiêng núm lớn đánh hồi cùng trống cái (tương tự như chiêng trống người Kinh).[15][16] Chiêng trống Cơ Tu là âm thanh không thể thiếu trong điệu múa "dâng trời" Tung tung da dá.[15] Một số điệu dân ca Tà Ôi như Cha chấp lại dùng 1 chiêng bằng.[17][18]
Cồng chiêng ở dân tộc Chăm hai nhánh H'roi, Panduranga cách sử dụng cũng khác nhau. Người Chăm H'roi được biết đến với nghệ thuật Trống đôi, cồng ba, chiêng năm[19]; người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận chỉ dùng 1 chiêng nhỏ (gọi là cheng, khoảng 30cm, thường có núm) hòa tấu cùng các nhạc cụ như trống ghi-năng, kèn saranai và trống paranưng.[20][21]
Nếu như người Kinh, người Thái, người Cơ Tu... chỉ sử dụng cồng chiêng như các nhạc cụ nhịp điệu không định âm, thì cồng chiêng Mường và một số dân tộc Tây Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê Đê... lại có tính nhạc. Mỗi chiêng tương ứng một nốt nhạc và được hòa tấu cùng nhau như một dàn nhạc hoàn chỉnh.[11]
Đơn cử một số dàn cồng chiêng ở Tây Nguyên như "Gia Rai có hàng âm Đồ - Sol - Si - Đô - Rê - Mi - Fa - Sol - Si - Đô - Rế. Dàn công chiêng của người Ba Na có hàng âm Rề - La - Rê - La - Si - Đô - Rê - Fa - Sol - La - Si" (khảo sát của nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan).[22] Những dàn hơn 10 chiêng ở Tây Nguyên thường đi cùng một trống cái (trống Hơgơr - người Ê Đê); có thể thêm một trống nhỏ hơn để vỗ, lục lạc và chập cheng.[23]
Một dàn chiêng Mường 12 chiếc có 4 chiêng Dàm (trầm), 4 chiêng Bồng (trung), 4 chiêng Tlé (bổng). Chiêng bổng dùng cho giai điệu, chiêng trầm gióng lên đồng loạt ở cuối từng đoạn của bài chiêng, gọi là tiếng "khầm".[7][24][25]
Người Mường còn dùng bộ 4 chiêng Dàm với trống cái (tương tự dàn chiêng trống người Thái, người Thổ) trong những dịp cưới hỏi và ngày Tết; 1 chiêng đơn lẻ trong nghi lễ.
Dân tộc | Biên chế tiêu biểu | Có núm | Không núm | Ghi chú |
---|---|---|---|---|
Kinh | 1 chiêng | X | Chèo, Tuồng, Hát bội, Ca trù, Nhã nhạc cung đình Huế | |
Mường | 12 chiêng[26] | X |
| |
Thái, Thổ | 4 chiêng[27][28] | X | Người Thổ thường gọi là cồng (như cồng ba, cồng tư)[27] | |
Khơ Mú | 2-3 chiêng[29][30] | X | ||
La Chí | 2 chiêng[8] | X | Tết Khu Cù Tê | |
Giáy | 3 chiêng núm hoặc bằng[31][32][33][34] | X | X | Hòa tấu cùng trống nhỏ (dạng trống bản) hoặc trống nêm, kèn pí lè[33] |
Kháng | 1 chiêng[35] | X | Dùng trong nghi lễ[35] | |
Chăm (H'roi) | 3 chiêng núm, 5 chiêng bằng[36] | X | X | Trống đôi, cồng ba, chiêng năm |
Chăm (Ninh Thuận, Bình Thuận) | 1 chiêng | X | Chiêng khoảng 30cm, gọi là cheng | |
Ba Na | 3-6 chiêng núm, 5-10 chiêng bằng[37][38] | X | X | |
Brâu |
|
X | X | |
Chu Ru | 3 chiêng[39] | X | ||
Cor | 2 chiêng[40] | X | Dùng cùng 1 trống trong Đấu chiêng | |
Cơ Ho, M'nông, Mạ | 6 chiêng[4][41] | X | ||
Cơ Tu | 2 chiêng bằng, đôi khi có 1 chiêng núm lớn.[13][15] | x | X | Chiêng núm đánh hồi dài cùng trống cái |
Ê Đê | X | X | ||
Gia Rai | X | X | ||
Giẻ Triêng, Xơ Đăng | 3 chiêng núm, 8 chiêng bằng[4] | X | X | |
Hrê | 3 chiêng[47] | X | Chiêng ba | |
Raglai | 4-12 chiêng[48] | X | ||
Stiêng | 5 chiêng núm, 6 chiêng bằng[1] | X | X | |
Tà Ôi | 2 chiêng bằng, đôi khi có 1 chiêng núm lớn.[14][16]
(Cha chấp: 1 chiêng bằng)[18] |
x | X |
Nghệ nhân chỉnh chiêng hay người điều khiển giàn chiêng là nhạc công giỏi, có khả năng thẩm âm, biết phát hiện và chỉnh sửa thanh âm lạc điệu của từng chiêng để đạt được âm thanh chuẩn của cả giàn chiêng. Nghệ nhân chỉnh chiêng không chỉnh âm cho các chiếc chiêng sai âm, mà còn chỉnh âm cho các giàn chiêng mới. Nghệ nhân chỉnh chiêng được coi là báu vật dân gian sống, bao hàm tính truyền thống và tính khoa học, không chỉ đơn thuần là một kĩ thuật viên.
Việc định danh "cồng chiêng" trong tiếng Việt hiện vẫn còn nhiều tranh luận, chủ yếu xoay quanh vấn đề "cồng" và "chiêng" đâu là loại có núm, đâu là loại không núm. Thực tế thuật ngữ "cồng chiêng" chỉ vừa xuất hiện vào năm 1985, khi cuộc hội thảo đầu tiên về cồng chiêng ở Tây Nguyên diễn ra. Theo GS. Tô Ngọc Thanh: "'Cồng chiêng' là tên gọi phổ biến theo tiếng Việt (Kinh) để chỉ loại nhạc cụ được đúc bằng đồng hợp kim thuộc họ nhạc cụ tự thân vang, chỉ gõ và chỉ đấm... Trong cách gọi của dân gian không phải nhất thiết cứ có sự phân biệt cồng là có núm còn chiêng là không có núm".[49][2]
Theo cách gọi dân gian hiện nay:
Một đặc điểm khá nổi bật là cồng chiêng tại các nước này không còn được xem như là vật thông linh giữa con người và trời đất mà đã chính thức trở thành nhạc cụ dân gian hay cung đình. Cồng chiêng của người Khmer Campuchia chỉ có hai người diễn tấu với 2 dàn cồng, mỗi dàn gồm 16 chiếc cồng nhỏ xếp trên một giá sắt hình bán nguyệt, riêng người Tampuan và các dân tộc thuộc nhóm Khmer Loeu ở Campuchia thì cồng chiêng của họ có nét tương đồng giữa cồng chiêng Tây Nguyên và dân tộc Igorot ở Philippines.Cồng chiêng của Myanmar tuy đồ sộ hơn nhưng cũng được cố định vào những chiếc khung và giá đỡ chắc chắn, mang dáng dấp của một nhạc cụ hiện đại. Cồng chiêng Indonesia gồm 10 nhạc cụ diễn tấu cùng với cồng chiêng như trống kendang, trống lắc rebana, đàn sapeh... Riêng cồng chiêng Philippines,như Gangsa của các dân tộc Kalinga hay Igorot gồm 6 cồng phẳng, người đánh cồng di chuyển đôi chút và có những động tác gần như múa, còn thì nhạc công trong các dàn cồng lớn của Đông Nam Á đều ngồi một chỗ biểu diễn. Người Mambai ở Đông Timor hay người Kreung thuộc Khmer Loeu sử dụng cồng, loại chiêng của người Kreung gọi là kong nyee (គងញី), trong khi chiêng gọi là kong chmol (គងឈ្មោល).
Cồng chiêng đi vào âm nhạc và đời sống Trung Quốc trong nhiều thiên niên kỷ. Công dụng đầu tiên của nó có thể là để báo hiệu cho công nhân nông dân từ ngoài đồng vào, vì một số cồng chiêng đủ lớn để có thể nghe thấy từ cách xa tới 5 dặm (8 km). Ở Nhật Bản, theo truyền thống, chúng được sử dụng để bắt đầu các cuộc thi đấu vật sumo. Chiêng Trung Quốc thường dùng trong các trận đấu võ kungfu, thiếu lâm hay Vịnh Xuân quyền.