Xyrichtys | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Labriformes |
Phân bộ (subordo) | Labroidei |
Họ (familia) | Labridae |
Chi (genus) | Xyrichtys Cuvier, 1814 |
Loài điển hình | |
Coryphaena novacula Linnaeus, 1758[1] | |
Các loài | |
10 loài, xem trong bài | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Xyrichtys là một chi cá biển thuộc họ Cá bàng chài. Các loài trong chi này được gọi chung là razorfish ("cá dao cạo"), dựa vào hình dạng cơ thể trông giống như một chiếc dao cạo.
Từ định danh xyrichtys bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, được ghép từ xyron ("dao cạo") và ichthys ("cá"), hàm ý đề cập đến hình dạng cơ thể của những loài thuộc chi này[2].
Các loài trong chi Xyrichtys hầu hết có phạm vi phân bố tập trung ở Đại Tây Dương và Đông Thái Bình Dương, duy nhất một loài có mặt ở Ấn Độ Dương là X. rajagopalani. Tuy nhiên, nhiều tác giả lại đặt X. rajagopalani vào chi Iniistius nên tình trạng phân loại của loài này vẫn chưa rõ ràng[3].
Ban đầu, Iniistius được xem là một danh pháp đồng nghĩa với Xyrichtys. Tuy nhiên, trong luận văn Tiến sĩ của mình vào năm 1974, Tri-thuc Nguyen đã chỉ ra những điểm khác biệt về hình thái giữa Iniistius và Xyrichtys, trong đó có đề cập đến việc chiều dài của hộp sọ của Iniistius cao hơn đáng kể so với ở Xyrichtys[4]. Ngoài ra, khoảng cách giữa hai gai vây lưng thứ hai và thứ ba của Iniistius lại rộng hơn khoảng cách giữa hai gai vây lưng thứ ba và thứ tư, trong khi cả hai khoảng cách này xấp xỉ bằng nhau ở Xyrichtys. Chính vì vậy, Iniistius được công nhận là một chi hợp lệ, tách biệt hoàn toàn với Xyrichtys[4].
Tương tự như Iniistius, Novaculops cũng từng được xem là danh pháp đồng nghĩa của Xyrichtys[5]. Nhưng vào năm 2013, trong bản mô tả loài mới là Novaculops alvheimi, Randall đã công nhận Novaculops là một chi hợp lệ, bởi vì chúng không có phần trán dốc đặc trưng như ở Iniistius và Xyrichtys[6]. Một số loài trước đây được xác định là thuộc chi Xyrichtys sau đó đã được chuyển sang chi Novaculops.
Có ít nhất 10 loài được công nhận là hợp lệ trong chi này, bao gồm[7]:
Ngoài ra, còn một loài nghi vấn được xếp trong chi này, là X. javanicus. De Beaufort cho rằng, mẫu gốc mà Pieter Bleeker dùng để mô tả loài này nhiều khả năng là từ Đại Tây Dương, nhưng bị gán nhãn sai là "Java"[8].
Như Iniistius, phần trán dốc giúp Xyrichtys nhanh chóng đào hang dưới nền cát và dễ dàng di chuyển trong hang bằng những chuyển động uốn lượn của chúng[6]. Hầu hết Xyrichtys đều là loài lưỡng tính tiền nữ và dị hình giới tính.