Yên Sơn Quân 燕山君 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Vua Triều Tiên | |||||
Quốc vương Triều Tiên | |||||
Trị vì | 20 tháng 1 năm 1495 - 18 tháng 9 năm 1506 (12 năm, 241 ngày) | ||||
Đăng quang | 25 tháng 1 năm 1495 | ||||
Tiền nhiệm | Triều Tiên Thành Tông | ||||
Kế nhiệm | Triều Tiên Trung Tông | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | Hán Thành | 23 tháng 11, 1476||||
Mất | 20 tháng 11, 1506 Giang Hoa đảo | (29 tuổi)||||
Thê thiếp | Phế phi Thận thị | ||||
Hậu duệ |
| ||||
| |||||
Triều đại | Nhà Triều Tiên | ||||
Thân phụ | Triều Tiên Thành Tông | ||||
Thân mẫu | Phế phi họ Doãn |
Yên Sơn quân (chữ Hán: 燕山君; Hangul: 연산군; 23 tháng 11, 1476 – 20 tháng 11, 1506), là vị vua thứ 10 của nhà Triều Tiên, trị vì từ năm 1494 đến khi bị lật đổ vào năm 1506.
Trong lịch sử Hàn Quốc, ông được xem là vị bạo chúa khét tiếng nhất. Ông được biết đến với hai cuộc thanh trừng đẫm máu nhất nhì lịch sử, gọi là Mậu Ngọ sĩ họa (戊午士禍) và Giáp Tý sĩ họa (甲子士禍). Nguyên nhân chủ yếu là chuyện mẹ ông, Doãn Vương phi, bị các đại thần cùng hậu cung của cha ông Triều Tiên Thành Tông ép phế truất và bị bức tử. Chính vì vậy những cuộc thanh trừng này là nhân danh người mẹ đã mất của ông. Tiếp theo đó, ông xử tử 2 vị hậu cung của vua cha là Trịnh quý nhân và Nghiêm quý nhân, buông lời lẽ hỗn xược với tổ mẫu là Nhân Tuý Đại vương đại phi khiến bà qua đời không lâu sau đó.
Cuối cùng, Triều Tiên Trung Tông được các đại thần hậu thuẫn, tiến hành Trung Tông phản chính, lật đổ Yên Sơn quân sau 12 năm trị vì.
Ông vốn húy là Lý Long (李㦕; 이융), có ấu danh Vô Tác Kim (無作金)[1]. Ông là con trai trưởng của Triều Tiên Thành Tông, mẹ là Phế phi họ Doãn, vị Vương hậu bị phế truất đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên.
Phế phi Doãn thị mẹ của Yên Sơn quân từng là một Hậu cung, Tòng nhị phẩm Thục nghi cho đến khi Trung điện, chính thất của nhà vua là Cung Huệ Vương hậu qua đời mà không có con trai, Thành Tông buộc phải lập người vợ thứ hai. Năm 1476, Vương phi Doãn thị được chọn nhờ sắc đẹp và sau đó vài tháng đã sinh con trai đầu - Vương tử Lý Long, sau này là Yên Sơn quân. Vương phi mới tỏ ra ghen ghét với các Hậu cung khác của Thành Tông nên đã đầu độc một người.
Năm 1479, Vương phi Doãn thị vô tình gây ra vết sẹo trên mặt Thành Tông. Mặc dù nhà vua cố gắng che giấu vết thương nhưng mẹ ông là Nhân Túy Vương đại phi vẫn phát hiện được và ra lệnh lưu đày Vương phi Doãn thị. Sau nhiều nỗ lực để phục hồi lại địa vị cho Phế phi Doãn thị bất thành, các đại thần cùng Chúa thượng và vương thất quyết định ban độc dược xử tử bà, đó là năm 1482. Yên Sơn quân khi mẹ mất chỉ mới 6 tuổi, do mẹ kế là Trinh Hiển Vương hậu nuôi dưỡng.
Năm 1483, tuy mẹ là Doãn phi bị phế, nhưng thân phận đích trưởng của ông vẫn không đổi, nên Thành Tông đã tấn phong Lý Long làm Vương thế tử, khi ấy ông vừa 7 tuổi.
Đã có hai cuộc thanh trừng nho sĩ dưới triều đại của Yên Sơn quân, thiết lập lên một chu trình báo thù kéo dài trong năm mươi năm.
Năm 1494, ngày 20 tháng 1, Yên Sơn quân trở thành Vương của Triều Tiên. Ban đầu, ông được đánh giá là người anh minh, quan tâm và phát triển quân đội cũng như có rất nhiều hành động bảo vệ người nghèo. Chuyện bắt đầu khi ông có hành động điên rồ giết chết một trong những cận thần của ông thuở đầu khi làm vua. Bản thân ông cũng không biết bất cứ một chuyện gì về cái chết của mẹ mình. Nhưng một số đại thần bị thất sủng như Nhậm Sĩ Hồng (任士洪) và Liễu Tử Quang (柳子光) đã cho ông biết sự thật. Yên Sơn quân tức giận và bắt giữ nhiều đại thần có liên quan. Tất cả đều bị sát hại sau đó, sự kiện này xảy ra vào năm 1498 và được gọi là Mậu Ngọ sĩ họa (무오사화; 戊午士禍) hay Cuộc thanh trừng lần thứ nhất.
Ngày 20 tháng 3 năm 1504, trong cơn cuồng loạn ông ra lệnh đánh đập, hành hạ cho đến chết hai vị Quý nhân Trịnh thị và Quý nhân Nghiêm thị đều là hậu cung nội mệnh phụ của tiên vương vì cho rằng họ có âm mưu hãm hại khiến mẫu thân của ông bị truất phế vương vị, đồng thời buông lời đại bất kính miệt thị Nhân Tuý Đại vương đại phi (tức nội tổ mẫu của ông) cùng Từ Thuận Đại phi (tức Trinh Hiển vương hậu, đích kế mẫu của ông) vì cho rằng hai vị trên có liên quan đến việc phế truất và ban chết mẫu thân của ông, khiến Đại vương đại phi Nhân Tuý vì uất ức mà sinh bệnh qua đời không lâu sau đó.
Cũng trong năm đó ông xử tử rất nhiều học giả Nho giáo trước đây đã tấu lên vua Thành Tông để phế truất mẹ mình, và đào mộ của Hàn Minh Quái để chặt đầu tử thi; được lịch sử gọi là Giáp Tý sĩ họa (갑자사화, 甲子士禍) hay Cuộc thanh trừng lần thứ hai.
Sau vụ thảm sát này, nhiều dân thường chế nhạo và xúc phạm nhà vua với các biểu ngữ được viết bằng Hangul. Điều này càng làm cho Yên Sơn quân tức giận hơn. Ông cấm sử dụng Hangul, đóng cửa Thành quân Quán (성균관, 成均館, Seonggungwan) - trường đại học quốc gia. Ông còn ra lệnh người dân trên toàn bán đảo Triều Tiên phải tiến cống các cô gái trẻ và ngựa để phục vụ cho nhu cầu giải trí của mình. Nhiều người sợ cách cai trị chuyên chế của Yên Sơn quân, tương phản hoàn toàn với sự tự do của thời đại vua cha Thành Tông.
Năm 1506, một nhóm các quan đại thần, dẫn đầu là Phác Nguyên Tông (朴元宗), Thành Hi Nhan (成希颜), Liễu Thuận Đinh (柳顺汀) và sự hậu thuẫn của Từ Thuận Đại phi đã vạch ra âm mưu chống lại Yên Sơn quân. Ngày 2 tháng 9 năm đó, họ tiến hành cuộc binh biến phế truất ông và lập Tấn Thành Đại quân, người em cùng cha khác mẹ của Yên Sơn quân lên ngôi vua, tức Triều Tiên Trung Tông. Sự kiện này được gọi là Trung Tông phản chính (중종반정; 中宗反正).
Ông bị giáng xuống làm Vương tử và bị lưu đày ở Giang Hoa đảo. Ông qua đời vào ngày 20 tháng 11 cùng năm đó mà không có miếu hiệu và thụy hiệu.