Triều Tiên Thái Tông (chữ Hán: 朝鮮太宗; Hangul: 조선 태종; 13 tháng 6, 1367 – 8 tháng 6, 1422), còn gọi là Triều Tiên Thái Tông Cung Định đại vương (朝鮮太宗恭定大王) hay Triều Tiên Cung Định vương (朝鮮恭定王), là vị quốc vương thứ ba của nhà Triều Tiên, cai trị từ năm 1400 - 1418, tổng 18 năm, trở thành Thượng vương từ năm 1418 cho đến khi qua đời là khoảng 4 năm.
Trong lịch sử Triều Tiên, Thái Tông được xem là một vị vua tàn bạo, nhưng có năng lực, đã có công xóa bỏ những đặc quyền của quan lại cao cấp trong chính quyền, đồng thời chia lại ruộng đất cho dân cày, củng cố vương quyền cho triều đại, khiến triều đại Triều Tiên càng được vững chắc.
Thái Tông đại vương có húy Lý Phương Viễn
(Yi Bang-won 李芳遠), tự Di Đức (遺德), ông là con thứ năm của Triều Tiên Thái Tổ, em trai cùng mẹ với Triều Tiên Định Tông. Ông sinh vào ngày 13 tháng 6, năm 1367 tại phủ đệ của cha ông ở Hàm Hưng, dưới triều đại của Cao Ly Cung Mẫn vương. Khi cha ông Thái Tổ Lý Thành Quế đang cất binh, phải di trú luôn, ông phụ trách bảo vệ hai người mẹ là Hàn phu nhân và Khương phu nhân; cùng hai em trai Lý Phương Phiền (李芳蕃), Lý Phương Thạc (李芳碩) cùng ba em gái khác.
Năm 1392, Thái Tổ Lý Thành Quế tức vị, ông được cha mình phong tước hiệu Tĩnh An quân (靖安君). Trong thời gian này, ông hay đại diện đi làm sứ giả qua nhà Minh, và tại Nam Kinh ông đã từng gặp qua Minh Thành Tổ Chu Đệ, khi ấy đang là Yên Vương.
Năm 1398, xảy ra Mậu Dần tĩnh xã (戊寅靖社), Tĩnh An quân Lý Phương Viễn giết chết Trịnh Đạo Truyền (鄭道傳), bức ép Thái Tổ Lý Thành Quế nhường ngôi, trở thành Thái thượng vương. Ông chưa vội lên ngôi, bèn đưa anh trai là Vĩnh An quân Lý Phương Quả lên kế vị, tức Triều Tiên Định Tông. Tự bản thân ông được phong thành Tĩnh An công (靖安公).
Hai năm sau, Tĩnh An công mưu sự chánh biến lần thứ hai. Lần này, Định Tông phải thoái vị, Tĩnh An công lên ngôi. Thái thượng vương Lý Thành Quế trở về nơi ở cũ tại Hàm Hưng, và qua đời ở đó vào năm 1408. Định Tông cũng qua đời vào năm 1419.
Năm 1401, ngày 28 tháng 11, Lý Phương Viễn chuẩn bị lên ngôi, gửi thư sang Minh Huệ Tông xin sắc phong làm Triều Tiên quốc vương (朝鮮國王). Nhà Minh phái sứ giả sang, tuyên đọc ý chỉ của Hoàng đế nhà Minh, và Lý Phương Viễn đã tiếp nhận. Về sau, Minh Thành Tổ kế vị, cũng chính thức công nhận ngôi vị của Triều Tiên quốc vương, xem nhà Triều Tiên như một chư hầu thân cận.
Năm 1418, ngày 9 tháng 9, ông nhường ngôi về làm Thái thượng vương, con trai của ông là Lý Tạo (李祹) lên ngôi, tức là Triều Tiên Thế Tông. Thượng vương vẫn điều hành việc nước rất cứng rắn. Năm 1419, thượng vương sai thủy quân đánh đảo Tsushima tiễu trừ cướp biển Nhật Bản. Ngày 10 tháng 5, thượng vương mất ở Tân cung, phường Toàn Đạt tại Hán Thành; hưởng thọ 56 tuổi. Ông được an táng tại Hiến Lăng (獻陵).
Thế Tông đại vương truy miếu hiệu là Thái Tông (太宗), thụy hiệu là Cung Định Thánh Đức Thần Công Kiến Thiên Thể Cực Đại Chính Khải Hữu Văn Vũ Duệ Triết Thành Liệt Quang Hiếu Đại vương (恭定聖德神功建天體極大正啓佑文武叡哲成烈光孝大王). Trong đó, chữ Cung Định (恭定) là do nhà Minh ban tặng, về sau các vị quốc vương nhà Triều Tiên đều dùng hai chữ thụy của nhà Minh dùng cho tên thụy.
Thân mẫu: Thần Ý Vương hậu Hàn thị (神懿王后 韓氏, 1337 - 1391), người An Biên, con gái An Xuyên Phủ viện quân Hàn Khanh (安川府院君韓卿) và Tam Hàn Quốc đại phu nhân Thân thị (三韓國大夫人申氏). Hàn thị là nguyên phối chính thất của Thái Tổ, lại qua đời trước khi Thái Tổ lên ngôi nên thụy hiệu đều do đời sau truy tặng. Thái Tổ năm thứ 2 tặng làm Tiết phi (節妃, 절비), đến năm thứ 7 lại đổi thành Thần Ý Thái Vương hậu (神懿太王后, 신의태왕후). Thái Tông năm thứ 8 (1408), được truy tôn thụy hiệu Thừa Nhân Thuận Thánh Thần Ý Vương thái hậu (承仁順聖神懿王太后).
Nguyên phối:
Nguyên Kính Vương hậu Mẫn thị (元敬王后閔氏, 1365 - 1420), người Ly Hưng, con gái Ly Hưng Phủ viện quân Mẫn Tễ (驪興府院君 閔霽) và Tam Hàn Quốc đại phu nhân Lệ Sơn Tống thị (三韓國大夫人礪山宋氏). Vương hậu Mẫn thị là nguyên phối chính thất của Thái Tông, Thái Tổ năm thứ 1 phong Tĩnh Ninh Ông chúa (靖寧翁主), Định Tông năm thứ 2 phong Trinh tần (貞嬪). Khi Thái Tông lên ngôi, bà được lập làm Tĩnh phi (靜妃), đến thời Thế Tông lại tôn làm Hậu Đức Vương đại phi (厚德王大妃).
Hậu cung:
Ý tần Quyền thị (懿嬪權氏), người An Đông, con gái Quyền Hoằng (權弘) và phu nhân họ Lý ở Khánh Châu (慶州李氏). Thái Tông năm thứ 2 (1402) phong Trinh Ý Cung chúa (貞懿宮主). Thế Tông năm thứ 4 (1422) phong Ý tần (懿嬪). Năm đó, bà cùng Tín tần Tân thị xin được xuất gia làm ni, không rõ năm mất. Sinh Trinh Huệ Ông chúa.
Chiêu tần Lư thị (昭嬪 盧氏, ? - 1479), người Trường Uyên, con gái Lư Quy Sơn (盧龜山) và phu nhân họ Thôi ở Trung châu (忠州崔氏). Thái Tông năm thứ 11 phong Chiêu Huệ Cung chúa (昭惠宮主). Sinh Kính Huệ Ông chúa.
Thục nghi Thôi thị (淑儀崔氏).
Kính Cung Cung chúa Kim thị (淑恭宮主金氏, ? - 1421), người Thanh Diên.
Thận Thuận Cung chúa Lý thị (愼順宮主李氏), người Tinh Châu.
Huệ Thuận Cung chúa Lý thị (惠順宮主李氏, ? - 1438), người Cố Thành.
Nghĩa Trinh Cung chúa Triệu thị (義貞宮主趙氏, ? - 1454), người Hán Dương.
Tây Kinh Ông chúa Kim thị (西京翁主金氏).
Đức Thục Ông chúa Lý thị (德淑翁主李氏)
Thuận Huệ Ông chúa Trương thị (順惠翁主 張氏, ? - 1423), người An Đông.
^Những người chưa bao giờ bước lên ngôi vua; nhưng sau khi qua đời được truy phong và thờ phụng như một vị vua .
^Những người này không phải là Quốc vương chính thức, lúc sinh thời họ được phong làm Thế tử (Thế đệ/Thế tôn) để dự bị kế vị sau này nhưng mất sớm trước vua cha, hoặc bị phế truất và do đó khôg thể lên ngôi. Những vị Thế tử được truy tôn Vương cũng nằm trong danh sách này, trong khi những vị đã trở thành Quốc vương thì không .
^Chức danh dành cho sinh phụ của Quốc vương nhưng chưa bao giờ lên ngôi Quốc vương, các vị truy tôn Vương không nằm trong danh này.