Yamaguchi Natsuo | |
---|---|
山口 那津男 | |
Chủ tịch Đảng Công minh | |
Nhiệm kỳ 8 tháng 9 năm 2009 – 28 tháng 9 năm 2024 | |
Tiền nhiệm | Ōta Akihiro |
Kế nhiệm | Ishii Keiichi |
Nghị viên Tham Nghị viện | |
Nhậm chức 29 tháng 7 năm 2001 | |
Khu vực bầu cử | Toàn Tōkyō |
Nghị viên Chúng Nghị viện | |
Nhiệm kỳ 18 tháng 2 năm 1990 – 20 tháng 10 năm 1996 | |
Khu vực bầu cử | Quận 10 Tōkyō |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 12 tháng 7, 1952 Nakaminato, Ibaraki, Nhật Bản |
Đảng chính trị | Đảng Công minh |
Đảng khác | Đảng Tân tiến (1994–1998) |
Cư trú | Katsushika, Tōkyō |
Alma mater | Đại học Tōkyō |
Website | www |
Yamaguchi Natsuo (山口 那津男 (Sơn-Khẩu Na-Tân-Nam)/ やまぐち なつお sinh ngày 12 tháng 7 năm 1952) là một chính trị gia người Nhật Bản thuộc Đảng Công minh và là Nghị viên Tham Nghị viện Nhật Bản.
Là người gốc Nakaminato (nay là Hitachinaka), Ibaraki và ông lớn lên ở Hitachi cho đến khi tốt nghiệp trung học phổ thông công lập. Mẹ ông là giáo viên tiểu học. Sau khi tốt nghiệp Đại học Tōkyō với bằng Cử nhân Luật năm 1978, ông trở thành luật sư năm 1982.
Ông được bầu vào Chúng Nghị viện lần đầu tiên vào năm 1990. Sau khi mất ghế vào năm 1996, ông đã tranh cử vào Chúng Nghị viện năm 2000 nhưng không thành công. Năm 2001, lần đầu tiên ông được bầu vào Tham Nghị viện. Ông trở thành Lãnh đạo của Đảng Công minh mới vào ngày 8 tháng 9 năm 2009 sau khi đảng chịu thất bại nặng nề trong cuộc Tổng tuyển cử năm 2009. Đảng mất 10 ghế, trong đó có ghế của Lãnh đạo đảng Ōta Akihiro và Tổng thư ký Kitagawa Kazuo. Vào ngày 8 tháng 9 năm 2009, Yamaguchi thay thế Ōta làm Chủ tịch của Đảng Công minh mới.[1]
Nhiệm kỳ lãnh đạo đảng của Yamaguchi kết thúc vào tháng 9 năm 2012 và ông được bổ nhiệm lại mà không được ứng cử thêm hai năm nữa vào ngày 22 tháng 9 năm 2012. Không cần bỏ phiếu vì ông là ứng cử viên duy nhất.[2] Ông tiếp tục lãnh đạo đảng cho đến năm 2024.
Yamaguchi đã đứng ra ủng hộ Hệ thống Họ có chọn lọc cho các cặp vợ chồng,[3] cũng như quyền bầu cử cho những người nước ngoài thường trú.[4]